Những quyết sách giúp thay đổi diện mạo khoa học công nghệ Việt Nam

Nền móng cho quản lý kỹ thuật đo lường
Trong giai đoạn đầu kháng chiến chống Pháp (1945-1954), Chính phủ lâm thời đã thành lập các ban ngành phù hợp với bối cảnh thực tế. Ngày 20/1/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 08/SL quy định về Đo lường hợp pháp của Việt Nam - đánh dấu sự ra đời và phát triển của ngành đo lường. Đây được xem như viên gạch nền, tạo cơ sở cho quản lý khoa học kỹ thuật, giúp sản xuất công nghiệp và quân sự trong thời kỳ kháng chiến có chuẩn mực thống nhất.
Ủy ban Khoa học Nhà nước
Sắc lệnh 016-SL ngày 4/3/1959 thành lập Ủy ban Khoa học Nhà nước, cơ quan chuyên trách cao nhất về khoa học công nghệ. Đây là tổ chức tiền thân của Bộ Khoa học và Công nghệ, cho thấy bước chuyển mình của lĩnh vực từ hoạt động tự phát sang quản lý tập trung ở tầm quốc gia.
Tại Đại hội lần thứ nhất của Hội phổ biến khoa học và kỹ thuật Việt Nam ngày 18/5/1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động, không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi".
Cũng trong năm này, Chỉ thị số 105/TTg của Thủ tướng về "tổ chức và lãnh đạo phong trào cải tiến kỹ thuật, sáng kiến phát minh của quần chúng" được ban hành, khuyến khích quần chúng tham gia cải tiến kỹ thuật, tạo ra các sáng chế và phát minh mới, góp phần phát triển kinh tế và xã hội.
Nghị định đầu tiên về quản lý khoa học kỹ thuật
Ngày 4/4/1962, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định 43/CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy khoa học nhà nước, gồm việc thành lập Ủy ban Khoa học Nhà nước trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Đây là lần đầu Việt Nam có một cơ quan ngang bộ quản lý khoa học, cột mốc khẳng định khoa học là lĩnh vực thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước, có vai trò trực tiếp trong xây dựng kinh tế xã hội và quốc phòng.
Nghị định 43/CP được đánh giá đặt nền móng cho khoa học phục vụ sản xuất, đời sống và bảo vệ Tổ quốc. Sau đó, nhiều viện nghiên cứu chuyên ngành được thành lập, nâng cấp hệ thống trường đại học kỹ thuật, biến khoa học trở thành một trụ cột trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và là bước khởi đầu cho chính sách khoa học công nghệ xuyên suốt sau này.
Hình thành hệ thống Tiêu chuẩn Việt Nam
Năm 1963, Hội đồng Chính phủ ban hành điều lệ về tiêu chuẩn hóa, kèm theo bộ tiêu chuẩn đầu tiên TCVN 1-1963 với mục tiêu "khuôn khổ và mẫu trình bày tiêu chuẩn". Đây là khởi đầu của hệ thống TCVN - "ngôn ngữ chung" để hàng hóa, sản phẩm khoa học Việt Nam hội nhập với thế giới sau này.
Năm 1970, Viện Đo lường và Tiêu chuẩn được tách thành Viện Đo lường và Viện Tiêu chuẩn. Một năm sau, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 60/CP thành lập Cục Kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hóa - bước phát triển mới trong hạ tầng khoa học công nghệ, trong đó Viện trở thành trung tâm quốc gia về chuẩn hóa, bảo đảm tính thống nhất trong sản xuất, nghiên cứu và thương mại.
Đổi tên, tái cấu trúc hệ thống khoa học kỹ thuật sau thống nhất
Sau khi đất nước thống nhất, Hội đồng Chính phủ ban hành quyết định đổi tên và tổ chức lại các viện, trung tâm nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Đây là bước đi cần thiết nhằm hoàn thiện thể chế, xây dựng hệ thống khoa học thống nhất trên phạm vi cả nước.
Năm 1976, Chính phủ ban hành Quyết định 08/CP và một loạt điều lệ về quản lý khoa học kỹ thuật, đặt nền tảng cho cơ chế quản lý thống nhất. Đây là năm lĩnh vực khoa học công nghệ lần đầu có khung pháp lý toàn quốc.
Ngành bưu điện cũng nhanh chóng triển khai thống nhất mạng lưới bưu chính viễn thông giữa hai miền Nam - Bắc về tổ chức, quản lý và kỹ thuật, gồm chuẩn hóa hệ thống quản lý, đồng bộ hóa thiết bị, kỹ thuật truyền dẫn, vận hành mạng lưới thông tin toàn quốc.
Nghị định quản lý khoa học công nghệ trong giai đoạn Đổi mới
Trong bối cảnh đất nước chuẩn bị bước vào công cuộc Đổi mới, năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 141 về Điều lệ về công tác Tiêu chuẩn hóa. Quy định này tạo hành lang pháp lý quan trọng, mở đường cho việc hội nhập với thế giới giai đoạn sau 1986.
Cùng năm, Nghị định 125 ra đời, sửa đổi tổ chức bộ máy Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, trong đó có Cục Sáng chế - tiền thân của Cục Sở hữu trí tuệ. Ngày 28/6/1984, nhà nước cấp Bằng sáng chế đầu tiên.
Luật Khoa học và Công nghệ
Ngày 22/6/2000, Luật Khoa học và Công nghệ được ban hành, có hiệu lực từ tháng 1/2001. Lần đầu tiên, lĩnh vực này có khung pháp lý cao nhất thay vì chỉ dừng lại ở các nghị định, khẳng định khoa học công nghệ giữ vai trò quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Điểm đột phá của luật là trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức nghiên cứu, mở rộng xã hội hóa, khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân tham gia hoạt động nghiên cứu, đổi mới công nghệ. Luật cũng lần đầu đưa vào khung bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ kết quả nghiên cứu, qua đó gắn kết chặt chẽ hơn giữa khoa học với sản xuất và thị trường cũng như hợp tác quốc tế. Luật Khoa học và Công nghệ cũng là nền tảng cho việc xây dựng các luật chuyên ngành như Luật Sở hữu trí tuệ (2005), Luật Chuyển giao công nghệ (2006), Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (2006), Luật Năng lượng nguyên tử (2008).
Năm 2013, Luật Khoa học và Công nghệ được sửa đổi nhằm phù hợp hơn với yêu cầu phát triển kinh tế tri thức thời đại mới. Trong đó, luật quy định cơ chế tự chủ cho tổ chức nghiên cứu, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư R&D, thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu, gắn hoạt động khoa học công nghệ với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Đến tháng 6/2025, Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ 1/10, mở rộng phạm vi như chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu, ưu đãi thuế, khuyến khích các công nghệ mới... Lần đầu tiên, đổi mới sáng tạo được đưa vào Luật và đặt ngang hàng với khoa học, công nghệ, thể hiện sự thay đổi căn bản trong tư duy phát triển.
Nghị quyết 20 về Phát triển khoa học và công nghệ
Tháng 8/2002, Bộ Khoa học và Công nghệ được thành lập. Luật Khoa học và Công nghệ năm 2000 đã hoàn thiện các khung pháp lý, nhưng Nghị quyết số 20 về Phát triển khoa học và công nghệ năm 2012 mới giúp thay đổi bộ mặt của ngành.
Nghị quyết khẳng định khoa học công nghệ cùng với giáo dục đào tạo trở thành quốc sách hàng đầu, nền tảng và động lực phát triển nhanh, bền vững đất nước - nâng tầm vai trò khoa học công nghệ từ công cụ hỗ trợ thành trụ cột chiến lược của phát triển quốc gia. Đây cũng là cơ sở để Chính phủ ban hành nhiều chương trình, quyết định về sau, như luật Khoa học và Công nghệ (2013), chiến lược quốc gia về cách mạng công nghiệp 4.0, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số.
Trong đó, Chương trình Chuyển đổi số quốc gia, được Thủ tướng phê duyệt tháng 6/2020, đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia số vào năm 2030, định hướng phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, coi đổi mới sáng tạo là động lực then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tạo lập môi trường thuận lợi để doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ có thể thử nghiệm, sáng tạo và phát triển các mô hình kinh doanh mới.
Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số
Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị, ra đời tháng 12/2024, là nghị quyết chuyên đề đặc biệt quan trọng về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Nghị quyết được xác định là động lực chính để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới quan hệ sản xuất, quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, người dân, doanh nghiệp là trung tâm, chủ thể và động lực; nhà khoa học là nhân tố then chốt; Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, tạo điều kiện, thúc đẩy; thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược là những nội dung trọng tâm, trong đó thể chế là điều kiện tiên quyết.
Tầm nhìn đến năm 2030, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đạt tầm tiên tiến trong nhiều lĩnh vực; kinh tế số chiếm ít nhất 30% GDP; xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trên tổng giá trị xuất khẩu đạt tối thiểu 50%; sử dụng dịch vụ công trực tuyến, giao dịch không dùng tiền mặt đạt tỷ lệ cao. Đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao; có quy mô kinh tế số ít nhất bằng 50% GDP; là nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; doanh nghiệp công nghệ số ngang hàng với các nước tiên tiến; và có ít nhất 10 doanh nghiệp công nghệ số lớn mạnh ngang tầm quốc tế.
Bảo Lâm