Nhảy đến nội dung
 

TS Mai Liêm Trực: 'Không mở cửa, không cạnh tranh, đất nước khó bứt phá' - Báo VnExpress

"Chúng tôi tự nhận ra khuyết tật của độc quyền"

- Thập niên 1990, ngành bưu điện phát triển mạnh, được xem là ngành kinh tế - kỹ thuật đi đầu trong công cuộc Đổi mới, và được trao Huân chương Sao Vàng năm 1995. Trong bối cảnh ấy, điều gì khiến ông và các cộng sự vẫn quyết định thúc đẩy việc xóa bỏ độc quyền, mở cửa cạnh tranh trong ngành?

- Lúc bấy giờ, ngành bưu điện đúng là đang ở thời kỳ đỉnh cao, đóng góp lớn vào sự phát triển của đất nước. Người dân và xã hội nói chung chưa phàn nàn gì nhiều về tình trạng độc quyền trong viễn thông.

Tuy nhiên, chúng tôi - những người trong cuộc - thấy rõ những khuyết tật của thị trường và rất trăn trở. Thế hệ chúng tôi đi ra từ chiến tranh, luôn tâm niệm việc gì có lợi cho dân thì phải cố gắng làm, như lời Bác Hồ dạy. Nếu cứ độc quyền, giá cước sẽ còn cao, việc quản trị, điều hành sẽ trì trệ và không biết bao giờ điện thoại mới trở nên phổ biến.

Có lần, chúng tôi báo cáo với Thủ tướng Võ Văn Kiệt về mục tiêu đến năm 2000 sẽ đạt một máy điện thoại trên 100 dân. Ông hỏi lại: "Sao chậm thế? Có cách gì nhanh hơn không?". Lúc đó chúng tôi không biết, không trả lời được. Nhưng tôi hiểu rằng phải có cách khác, tiến độ như vậy quả thật quá chậm.

Việt Nam còn chịu áp lực hội nhập quốc tế. Khi đó, chúng ta bắt đầu đàm phán Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (BTA). Mỹ đưa ra yêu cầu rất cao về quyền sở hữu của doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam. Các cuộc đàm phán giữa hai bên kéo dài nhiều năm để thu hẹp khác biệt.

Những phiên đàm phán cuối cùng diễn ra ở Mỹ. Phía Việt Nam do Bộ trưởng Thương mại Vũ Khoan làm trưởng đoàn. Một hôm, tôi nhận được cuộc gọi từ Mỹ cho biết vẫn còn mắc ở lĩnh vực viễn thông và ngân hàng. Phó thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm gọi tôi (lúc đó là Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện) và hỏi: giờ còn vướng như thế, nên "mở" thế nào để còn ký kết? Tôi báo cáo các phương án cùng những "điểm chốt" mà mình có thể giữ, đồng thời khẳng định trước sau cũng phải mở cửa thị trường viễn thông, không chỉ trong nước, mà còn với quốc tế. Nếu không kịp giảm giá cước và mở rộng lượng người dùng, doanh nghiệp trong nước sẽ khó trụ vững khi nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường.

Nói thật, tôi cảm thấy may mắn vì mình đã không gây cản trở quá trình ký kết Hiệp định. Nếu cứ khăng khăng giữ thế độc quyền, không mở cửa với nước ngoài thì khó mà ký kết được BTA.

- Những thách thức lớn nhất trong quá trình mở cửa thị trường là gì?

- Việc mở cửa thị trường của ngành viễn thông - một ngành có lịch sử độc quyền tự nhiên - đương nhiên rất phức tạp và gặp nhiều thách thức.

Đất nước vừa trải qua chiến tranh, khi giành được độc lập, toàn xã hội, đặc biệt là các lãnh đạo, rất nhạy cảm với vấn đề an ninh quốc gia. Viễn thông là ngành thông tin liên lạc trọng yếu, có nhiều mối lo về nguy cơ lộ bí mật quốc gia, phát tán thông tin độc hại...

Thách thức thứ hai liên quan đến đặc thù ngành viễn thông, cũng như ngành điện, nước, hàng không... Các đơn vị quản lý và doanh nghiệp đều đã quen với cơ chế độc quyền. Việc chuyển đổi sang mô hình cạnh tranh vì vậy rất phức tạp, làm xáo trộn cấu trúc quan hệ vốn có giữa cơ quan quản lý và doanh nghiệp cũng như ảnh hưởng tới lợi ích của các bên tham gia thị trường.

Viễn thông cũng là ngành công nghệ cao với nhiều yêu cầu kỹ thuật, nghiệp vụ và quy trình nghiêm ngặt. Ngành này cần đội ngũ chuyên nghiệp, tuân thủ tiêu chuẩn và thể lệ thông tin quốc tế. Các doanh nghiệp mới sẽ đối mặt với nhiều khó khăn về vốn, nhân lực và công nghệ.

Như vậy, muốn mở cửa, thúc đẩy cạnh tranh, chúng tôi phải giải quyết ít nhất các vấn đề: đảm bảo an ninh thông tin quốc gia, thay đổi tư duy quản trị, và hỗ trợ, giúp sức cho các doanh nghiệp mới tham gia thị trường.

- Quyết định hoặc bước đi táo bạo nào đã giúp giải quyết những vấn đề trên?

- Trong quá trình này, tôi nhớ tới hai mốc có tính chất bước ngoặt.

Mốc thứ nhất là ngày ra mắt dịch vụ Internet tại Việt Nam 19/11/1997, tôi ký cùng lúc bốn giấy phép kinh doanh Internet, tạo cạnh tranh ngay từ đầu cho VDC, FPT, Netnam và Saigonnet.

Lãnh đạo Nhà nước lúc đó yêu cầu "quản đến đâu, mở đến đấy", nên chúng tôi còn giữ độc quyền cổng quốc tế cho VNPT. Nhưng chỉ vài năm sau, nhờ chứng tỏ được khả năng quản lý tốt, và với Chỉ thị 58 được ban hành, thay đổi sang tư duy "phát triển đến đâu, quản đến đấy", chúng tôi cho phép các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) xây dựng cổng quốc tế, không qua VNPT nữa.

Mở cửa cạnh tranh Internet không quá khó do số lượng người sử dụng đường dây điện thoại dial up còn ít, doanh thu thấp nên chưa tác động lớn đến doanh nghiệp.

Nhưng, bước ngoặt thứ hai - mở cửa thị trường viễn thông - phức tạp hơn nhiều vì doanh thu lớn, tác động mạnh đến lợi ích doanh nghiệp.

Chúng tôi triển khai cương quyết, minh bạch đồng thời cũng mềm dẻo khi mở dịch vụ VoIP (Voice over Internet Protocol). VNPT lúc này đang kinh doanh tốt dịch vụ cuộc gọi trực tiếp quốc tế IDD (International Direct Dialing), nên không mặn mà với VoIP.

Viettel thành lập được vài năm và đang loay hoay tìm chỗ đứng trên thị trường. Họ đầy khao khát. Các lãnh đạo công ty trình lên một đề án rất tỉ mỉ và trở thành đơn vị duy nhất tại Việt Nam được cấp phép cung cấp dịch vụ VoIP 178 ngày 3/2/2000. Với chỉ hơn hai tỷ đồng tiền vốn, Viettel đã xoay xở rất tốt để thông đường dây vào ngày 15/10/2000.

Tối hôm đó, tôi đang xem thời sự, thấy VTV phát đoạn quảng cáo: "178, mã số tiết kiệm của bạn", tôi nghe như có luồng điện chạy qua, vì mình - vốn là người VNPT - đang độc quyền quen rồi, tự dưng có một bên khác quảng cáo. Tôi nhận ra mẩu quảng cáo nhỏ đó sẽ là một đột phá khẩu, tạo nên sự thay đổi lớn, tác động tới cuộc sống của hàng chục triệu dân.

Rồi cũng đến ngày sự tăng trưởng doanh thu của Viettel đụng tới quyền lợi của VNPT. VNPT phàn nàn rằng các doanh nghiệp mới được kinh doanh ở các thành phố lớn, hạ tầng tốt, còn họ phải đảm nhận cung cấp dịch vụ cho biên giới, hải đảo, vùng sâu, biên lợi nhuận thấp, như thế là không công bằng.

Đụng đến công bằng, Nhà nước - ở đây là Tổng cục - phải làm trọng tài.

Chúng tôi xây dựng cơ chế chia sẻ lợi nhuận. Ví dụ, gọi VoiP ra nước ngoài, cước Viettel là 1,3 USD. Nhưng nếu gọi ở Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng thì VNPT được chia 65 cent, còn gọi từ các tỉnh khác thì VNPT được 75 cent. Nghĩa là Viettel phải chia sẻ lợi nhuận cho VNPT.

Từ tháng 10/2000 đến tháng 7/2001, sau khi Viettel thí điểm thành công, chúng tôi cấp phép cho VNPT và các doanh nghiệp khác. Khi thị trường VoIP vận hành tốt, Tổng cục để các doanh nghiệp tự quyết định giá. Chúng tôi xây dựng Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông, mở Quỹ Viễn thông công ích do các doanh nghiệp đóng góp, doanh nghiệp nào triển khai dịch vụ công ích sẽ lấy ngân sách từ quỹ này.

Với sự cải cách toàn diện về công nghệ và thể chế, đến năm 2010, ngành viễn thông Việt Nam đã hình thành thị trường cạnh tranh tương đối hoàn chỉnh và có tốc độ tăng trưởng rất nhanh. Giá cước rẻ xuống, chất lượng dịch vụ tốt lên. Như vậy là dân được nhờ, đất nước phát triển.

"Áp lực nặng nề từ cái vỗ vai của Thủ tướng"

- Ngoài việc đối diện và giải quyết các vấn đề từ phía doanh nghiệp, ông còn chịu những áp lực nào từ các lãnh đạo cấp cao?

- Đúng là chúng tôi gặp những áp lực nhất định. Nhiều lãnh đạo ủng hộ, cũng người lo ngại, và sự lo ngại là hoàn toàn dễ hiểu.

Trong một cuộc họp ở Tổng cục Bưu điện, chúng tôi báo cáo chiến lược phát triển ngành bưu chính viễn thông trước một lãnh đạo cấp rất cao, thường cắt ngang giữa chừng. Tôi biết thế, nên đã để phó tổng cục trưởng Nguyễn Huy Luận báo cáo, còn mình làm "cầu thủ dự bị", phòng khi ông Luận bị cắt, tôi vẫn "còn sống" để chiến đấu tiếp.

Đúng như dự liệu, đến đoạn "mở cửa, cạnh tranh", cụ nói: "Thế này không quản lý được, mất chủ nghĩa xã hội". Lúc đó, tôi nhỏ nhẹ phát biểu: "Năm 1945, cả nước có 5.000 đảng viên, vận mệnh đất nước ngàn cân treo sợi tóc, mà Bác Hồ và Đảng vẫn vượt qua được. Bây giờ đất nước có 2 triệu đảng viên, có quân đội, có chính quyền, tại sao phải sợ, chúng ta phải tin vào dân chứ".

Nghe tôi nói xong, cụ im lặng. Ông Luận cũng nhanh trí, thấy không ai nói gì nữa thì đứng dậy, đọc tiếp báo cáo. Chúng tôi thoát khỏi khoảnh khắc căng thẳng của cuộc họp.

Có những lúc, khi trình bày không xuôi, anh em trong đội cũng bức xúc. Tôi phải động viên: mình không thuyết phục được lãnh đạo là do mình dở. Trải qua bao nhiêu mất mát, hy sinh mới giành được độc lập, áp lực giữ gìn hòa bình lớn lắm. Các cụ lo chứ.

Khi đưa Internet vào Việt Nam, tôi có lần gặp Thủ tướng Phan Văn Khải tại nhà riêng để báo cáo, xin ý kiến và được ủng hộ. Nhưng vừa ra khỏi cửa, Thủ tướng vỗ vai tôi nói: "Trực cố gắng quản lý Internet cho tốt, chứ nếu mở ra mà phải đóng lại thì không biết ăn nói thế nào với thế giới".

Tôi lặng đi, cái vỗ vai rất nhẹ này bỗng nặng hơn mọi áp lực từ các nghị quyết.

Vì vậy, chúng tôi đâu dễ gì nói suông, nói tay bo. Tất cả phải cam kết bằng con số, chứng minh bằng kết quả. Ví dụ trước đây chưa mở Internet, thư từ đi vùng sâu, vùng xa chậm cả tháng, báo chí không ra được nước ngoài, liên lạc trong và ngoài nước, giữa Việt kiều với quê hương gặp muôn vàn khó khăn... Nhờ có Internet, báo điện tử phát triển mạnh như trang Quê hương, báo VnExpress, Thời báo Kinh tế Việt Nam... Tự nhiên truyền thông của mình tốt hơn hẳn. Có lúc tôi cũng phải dẫn ra những bằng chứng như thế làm đối trọng, để lãnh đạo bớt lo ngại Internet chỉ lan truyền thông tin độc hại.

- Bài học nào từ ngành viễn thông theo ông mang tính phổ quát, có thể áp dụng cho các ngành khác muốn chuyển từ độc quyền sang cạnh tranh?

- Tôi không dám nói là bài học, vì mỗi ngành có một đặc thù, với thuận lợi và khó khăn riêng. Nhưng đúng là quá trình này có những điểm chung nhất định.

Thứ nhất, mở cửa cạnh tranh là xu thế tất yếu. Không mở cửa, không cạnh tranh, đất nước khó bứt phá, dân không được hưởng lợi. Viễn thông không cạnh tranh, làm sao có cước rẻ; hàng không không mở cửa, làm sao dân có thể bay giá rẻ...

Tùy từng lĩnh vực, quá trình chuyển đổi có lộ trình dài ngắn khác nhau. Viễn thông, điện lực, hàng không, cấp thoát nước... đều từng độc quyền, đều rất khó khăn phức tạp nếu muốn thay đổi. Ở các nước cũng vậy. Nhưng điểm chung là phải mở, đừng né tránh, đừng trì hoãn; càng né tránh và trì hoãn, hậu quả chung cho đất nước và xã hội càng lớn hơn.

Thứ hai là ý chí của lãnh đạo nhà nước và nỗ lực của doanh nghiệp độc quyền sẽ quyết định sự thành công. Chẳng hạn, muốn có các doanh nghiệp mới, nhà nước phải có cơ chế khuyến khích. Đảm bảo công bằng trong cạnh tranh là đương nhiên, nhưng ở những giai đoạn nhất định, phải tạo thuận lợi cho doanh nghiệp mới, thị trường mới phát triển nhanh được. Khi mọi việc đã vận hành trơn tru, nhà nước có thể buông tay để thị trường tự điều tiết.

Doanh nghiệp độc quyền cũng phải nỗ lực thay đổi để thích ứng, có tầm nhìn xa, đặt mục tiêu phát triển lâu dài lên trên các lợi ích ngắn hạn.

Thứ ba là trong quá trình triển khai, phải có lộ trình rõ ràng, cái gì mở trước, cái gì mở sau tùy từng ngành, từng giai đoạn phát triển, đồng thời phải thay đổi tư duy quản lý nhà nước cũng như cách thức quản trị doanh nghiệp.

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: daisanjsc@gmail.com

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn