Tiếng người đàn ông gào thét trong đau đớn giữa đêm khuya dội ra từ ngôi nhà nhỏ phía cuối làng làm dấy lên nỗi khiếp sợ cho người nghe, một số người chép miệng xót xa nhưng chẳng biết làm gì để giúp đỡ, một số người hững hờ vì đêm nào cũng nghe nên đã quen.
Người đàn ông ấy từ đâu đến làng này không ai biết, chỉ thấy anh sống im lìm như những ngày biển lặng, anh đẹp trai như diễn viên, hiền lành như cát. Rồi đến một ngày những bí mật anh chôn giấu bị bung vỡ, người ta xì xào, xa lánh. Người ta ghê tởm anh và rồi anh lầm lũi, già nua trong bệnh tật, sự hiền lành đẹp đẽ trên khuôn mặt anh đã biến mất như chưa từng tồn tại, anh đã ngừng soi gương vì gương trả lại anh một hình ảnh méo mó không phải người, không phải quỷ. Đôi mắt biết cười của anh giờ cử động cũng khó khăn. Anh đã hoàn toàn biến mất dù vẫn còn tồn tại.
***
Anh dùng các đốt ngón tay mở điện thoại lên để nhìn đứa con gái duy nhất của mình qua ảnh mà anh tải về từ Facebook của con. Vậy là nó đã lớn thật rồi, vài hôm nữa thôi nó sẽ theo chồng về làm dâu nhà người ta. Giá mà anh có thể nắm lấy bàn tay con dắt vào hôn trường, trao bàn tay nhỏ nhắn của con mình cho con rể rồi dặn dò điều nọ điều kia. Bất chợt anh mỉm cười đưa bàn tay mình ra như đang nắm lấy bàn tay con rồi khó nhọc đứng lên bước từng bước, khoảnh khắc ấy anh nhìn thấy nụ cười của con sáng bừng lên trên khuôn mặt thanh tú giống mình như tạc thời trai trẻ. Bỗng cơn đau từ bàn chân chạy thốc thẳng vào tim, khuôn mặt con gái vụt tan biến, bàn tay anh rụng rơi giữa muôn chiều gió thổi.
Gần hai chục năm rồi, người dân ở xóm chài này đã quen với hình bóng của một người đàn ông đơn chiếc lủi thủi trong căn nhà nhỏ tận cuối xóm. Mới đầu người ta cũng tò mò hỏi han xem anh từ đâu đến nhưng anh chỉ cười hiền im lặng. Đám con gái trong làng mỗi dịp đi gánh nước ngọt cũng cố gắng đi đường vòng, lượn qua nhà anh mong được nhìn thấy anh hoặc được anh nhìn thấy.
Hồi ấy anh mới ngoài 20 tuổi, đẹp trai và lại có nét phong trần lãng tử nên con gái trong làng mê đắm, các bà mẹ luôn muốn nhắm anh làm con rể nhà mình. Nhà anh tấp nập các bà các cô ghé lại vì họ yêu quý cái đẹp toát ra từ anh và còn một phần nữa là tay nghề may của anh rất khéo, từng nhát cắt, từng đường kim mũi chỉ sắc sảo mượt mà. Ai đã một lần ghé tiệm may đồ nhà anh rồi thì không muốn đi nơi khác, vậy nên dù cửa hàng may của anh nằm khuất nơi cuối xóm nhưng ai ai cũng biết.
Hồi ấy làm ăn còn dễ, hàng may sẵn chưa thịnh và bệnh chưa phát nặng nên tiệm may của anh làm ăn khấm khá, anh làm việc cật lực ngày đêm còn nhận thêm hàng về ráp để dành dụm tiền trang trải cuộc sống và gửi về cho gia đình. Cuối tháng nào anh cũng đón xe lên thành phố một lần để lấy thuốc rồi gửi tiền, gửi thư về cho vợ con và cha mẹ. Mỗi lần nhận được thư của anh, gia đình ai cũng đớn đau than khóc, chỉ có bé Lam là ngơ ngác chưa biết gì vì còn bé quá, chẳng thể hiểu được nỗi đau của người thân.
Có lần vợ anh bế bé Lam đón xe từ Tây nguyên về Quy Nhơn tìm anh theo dấu bưu điện, nhưng lần nào cũng không tìm thấy nên chị đành bỏ cuộc. Anh hứa khi nào khỏe mạnh sẽ về với gia đình, nhưng dẫu đợi chờ mòn mỏi gia đình cũng chẳng thấy bóng anh đâu. Lá thư cuối cùng gửi về anh dặn sau này bé Lam lớn, có hỏi thì nói cha đi làm ăn xa và đừng kể gì nhiều về anh, hàng xóm có hỏi thì nói anh đã định cư ở nước ngoài rồi có vợ con bên ấy luôn để mọi người không phải xì xào dị nghị, sau này ảnh hưởng đến tâm lý bé Lam. Đời con còn rộng còn dài, sau này còn gia đình con cái, anh không muốn vì anh mà con bị bạn bè xa lánh, học hành sa sút, chồng con dang dở.
***
Sau một lần ân ái, vợ anh phát hiện trên cơ thể chồng mình có những nốt đỏ trông rất lạ. Nhưng với sự chủ quan cộng thêm kinh tế còn eo hẹp, vợ lại mới sinh nên đã bao nhiêu lần vợ giục đi khám anh chỉ cười hiền rồi cho qua. Vết thương cũng không làm anh đau đớn hay ngứa ngáy gì cả. Đến một ngày vết thương ấy lở loét ra anh mới giật mình. Lúc nhận được kết quả xét nghiệm mình bị bệnh phong anh như rớt xuống nhiều tầng địa ngục.
Trong phút đau đớn, hoảng loạn anh đã rú lên giữa sân bệnh viện như con thú vô tình rơi xuống hầm chông. Dù được bác sĩ động viên và cho biết đây là căn bệnh không lây, có thể chữa được nhưng anh rất sợ. Những ngày sau đó anh sống trong câm lặng, tâm trạng ngổn ngang. Anh không dám phụ vợ trông con, mấy tháng trời anh không ngồi vào bàn may - nghề mà trước đây anh ao ước học cho bằng được. Chuyện gần gũi vợ gần như không có.
Anh bắt đầu đi lang thang, vào rừng ngồi thẫn thờ hàng giờ đồng hồ. Vợ anh mới đầu thấy lo lắng cho chồng, gần gũi động viên, nắm bắt tâm lý… nhưng để trả lời cho sự quan tâm của vợ là sự im lặng đến đáng sợ của anh. Vốn tính đã ít nói, giờ anh im lặng làm không khí gia đình thêm ngột ngạt. Và rồi chuyện gì đến cũng đến. Vào một ngày nọ, vợ anh không kiềm chế được những uất ức trong lòng đã chửi anh thậm tệ và gán cho anh tội ngoại tình.
Nhìn đứa con khóc lịm trong tay vợ, anh muốn chạy đến ôm vợ con vào lòng nhưng anh sợ, sợ những vết lở loét trên người mình vô tình truyền lây qua cho vợ con. Con anh còn bé quá, từ khi mới lọt lòng mẹ anh đã chăm bẵm ôm hôn con không biết bao nhiêu lần. Ngày đêm anh cầu khấn ơn trên phù hộ cho con anh không bị lây nhiễm bệnh từ mình. Nhiều khi anh muốn nói hết nỗi lòng ra với vợ nhưng không đủ can đảm, anh sợ cô sẽ lo lo lắng rồi suy sụp, anh sợ nhìn thấy vợ đau đớn trước sự dị nghị xa lánh của hàng xóm. Vợ anh còn trẻ quá, không thể để đời cô ấy gắn với người bị bệnh như anh. Cô ấy xứng đáng được hạnh phúc.
Trước khi rời đi anh đã viết cho vợ một lá thư thật dài, kể hết nỗi lòng mình cho vợ hiểu cùng với lời dặn: Nếu 5 năm nữa anh không về thì em đừng đợi anh. Hãy tìm cho mình một chỗ dựa vững chắc và tìm cho con một người cha tốt. Vợ anh đã đợi chồng 5 năm trong nước mắt. Đến năm thứ 6 thì không một lá thư nào về nữa. Anh dặn vợ quên mình đi.
***
Kiến! - Anh hét lên trong đau đớn.
Hàng trăm ngàn con kiến đang bò lên người anh, chúng chui rúc vào các vết thương hả hê cắn phá, anh hất chúng ra trong lúc chúng đang cào cấu, đục khoét lên thịt da mình, anh nghe thấy vết thương đang chạy trên cơ thể mỗi lúc một nhanh, mùi hôi thối cũng bốc ra từ đó. Anh bắt con kiến chúa lên tiêu diệt với hy vọng đàn kiến sẽ rời đi, nhưng hỡi ơi… Con kiến nhe càng ra, mắt nó sáng rực lên như ngọn lửa muốn thiêu đốt anh, cơ thể nó to lớn lên một cách dị thường rồi nó há mồm ra ngoạm lấy anh ngấu nghiến… Trong lúc sức tàn lực kiệt cộng nỗi khiếp sợ đang bủa vây lấy mình, bỗng tiếng gọi "ba" của bé Lam từ nơi nào xa lắm vọng về làm anh bừng tỉnh. Cơn ác mộng ấy thường đến trong lúc anh đang say ngủ, tỉnh ra đã thấy những vết thương của mình bê bết máu. Cơn đau đã hành hạ thân thể và tinh thần anh đến kiệt cùng.
Ai mua trăng tôi bán trăng cho, chẳng bán tình duyên ước hẹn hò…
Vào những lúc say anh hay nói và hát nhiều hơn, tiếng hát bật ra từ trái tim, từ muôn vạn nỗi đau nối kết lại, nghe như tiếng linh hồn đi lạc đang cố gắng tìm về nơi mình đã từng sinh sống. Từ khi biết anh bị bệnh phong, khách chẳng ai dám tới nữa. Để có tiền sinh sống và thuốc uống, những đồ vật trong nhà anh lần lượt bán đi, rồi cái bàn may cũng bán nốt. Chỉ còn lại cái điện thoại cũ để nhìn những hoạt động của vợ con qua Facebook...
Anh sống bằng tình yêu thương của người dân xóm chài, có lúc họ đem cho anh con cá, bát gạo nhưng cũng có lúc vì bộn bề cuộc sống họ quên mất anh. Vào một ngày trong cơn đau và đói, anh đã muốn quyên sinh, nhưng hình như thần chết vẫn chưa kịp đến nên anh vẫn còn tồn tại. Anh bắt chước Hàn Mặc Tử năm nào và tập viết thơ, rồi viết truyện, những bài viết trong cơn đau, cơn nhớ đăng lên Facebook như để giải tỏa nỗi lòng. Không ngờ được một nhà báo giúp anh gửi bài, đăng lên và khuyến khích động viên anh viết. Từ đó anh có thêm nguồn thu nhập, không phải sống dựa dẫm vào tình yêu của xóm làng.
Mỗi lần viết là một lần như đánh đổi mạng sống, bàn tay anh với các ngón trơ cùi bấm xuống bàn phím nhói buốt tận tâm can, nhưng anh vẫn phải viết, viết để sinh sống, viết để dành dụm mua cho con chỉ vàng làm quà cưới. Cả đời con sống trong thiệt thòi, thiếu thốn tình cha. Những bài anh viết được rút ra từ những nỗi đau của anh và những người như mình mà anh đã gặp. Anh không chỉ viết cho mình mà viết cho bao người cùng cảnh ngộ, viết về sự thèm khát được yêu thương… nên các bài viết của anh được rất nhiều độc giả đón nhận dù họ không biết anh là ai ngoài bút danh.
***
Vài đứa trẻ trong làng kể với nhau, hôm cưới chị Lam chúng nó nhìn thấy quái vật, một con quái vật kinh dị. Chuyện từ đứa này truyền qua đứa khác, chúng phác họa lên một hình ảnh thật đáng sợ mà người lớn chẳng ai tin cả.
Câu chuyện ấy rồi cũng đến tai mẹ của Lam. Chỉ có một mình chị tin bọn trẻ nói đúng. Từ hôm nhận được khâu vàng, tim chị như có ai bóp nghẹt, nước mắt không còn để khóc nữa. Lòng chị ngổn ngang nhiều nỗi, nhưng rồi chị quyết định sẽ tìm cách kể cho con nghe về ba của nó và bằng mọi cách chị sẽ tìm được chồng mình. Dù bây giờ anh có như thế nào chị cũng sẽ sống cùng anh, chăm sóc anh bằng tất cả tình yêu mình có được.