Hà Tiên thập cảnh: Chuyện ly kỳ ở núi Bình San

Núi Bình San - lăng Mạc Cửu không chỉ là danh lam thắng cảnh mà còn chứa đựng nhiều câu chuyện ly kỳ được lưu truyền cho đến ngày nay.
Tỉnh trưởng vét ao, cầu mưa
Năm 1718, quân Xiêm tấn công, đốt phá Hà Tiên, Mạc Cửu chạy sang đất Lũng Kỳ. Sau khi yên giặc, ông đưa gia đình trở về Hà Tiên xây dựng lại xứ sở. Trong thời gian này, Mạc Cửu cho đào một cái ao lớn để cung cấp nước cho dân địa phương. Cái ao này là tiền thân của ao sen trước cổng Mạc Công miếu. Thời kỳ Pháp chiếm đóng Hà Tiên, họ cho làm kè đá bờ ao và con đường thẳng vào miếu, xẻ đôi cái ao thành hình bán nguyệt, vì thế ao có tên "Bán nguyệt liên trì".
Thi sĩ Đông Hồ trong bài Cảnh vật Hà Tiên đăng trên Nam Phong tạp chí (từ số 150 - 153 năm 1930) mô tả ao hình bán nguyệt trước Trung Nghĩa từ (tức Mạc Công miếu) có sen mọc nhiều, đẹp nhất vào mùa hè. Ao được rào chung quanh, có chừa khoảng không làm bậc thang lên xuống, có tường đá xây cao 5 tấc để ngăn nước dơ từ trên đường chảy xuống.
Mỗi năm, từ tháng giêng đến tháng chạp, lúc nào cũng có người đến lấy nước. Họ ra ao lấy nước vào lúc chiều cho đến khi mặt trời lặn hoặc vào những đêm trăng sáng. Còn xe bò lấy nước ngày 2 buổi, đông nhất vào những ngày giáp tết. Mỗi xe có một đôi bò kéo, chất khoảng vài chục thùng thiếc đựng nước, khi lấy nước xe phải đậu cách xa bờ giếng 5 thước. Trong ao có mạch nước ngầm nên lúc nào cũng có nước. Nhưng khoảng sau 10 năm thì bùn lấp cạn, nên phải vét lại. Năm 1916 vét một lần, đến năm 1926 vét lần nữa và tiếp tục được thực hiện trong các năm sau.
Trên báo Phổ Thông (11.5.1959), tác giả Ngọc Tỉnh có đăng chuyện vét ao vào năm 1956 với tình tiết khá ly kỳ, huyễn hoặc. Năm đó, Tỉnh trưởng Hà Tiên thấy ao cạn nên sai người bơm nước vét ao. Khi ao cạn nước thì thấy 2 con ba ba to bằng cái nia, ông cho thả vào ao ở chùa Tam Bảo. Nhưng từ đó, ao sen luôn bị khô cạn, mùa mưa đến chỉ đổ bên núi Tô Châu, còn phía Bình San thì khô hạn. Giá tiền mua nước tăng lên 30 đồng một gánh.
Biết người dân lo âu, Tỉnh trưởng bèn đến đền thờ Mạc Công đốt nhang cầu khẩn trời mưa. Khi ông sửa soạn làm lễ thì có một đứa nhỏ chạy vào nói, nếu muốn ao sen có nước như trước thì ông phải đem 2 con ba ba về thả lại xuống ao. Theo lời đứa nhỏ, viên Tỉnh trưởng lệnh đem 2 con ba ba về lại ao sen. Hai giờ sau đó, một trận mưa lớn đổ xuống, ao sen đầy nước như cũ.
Hiện nay, quang cảnh ao sen trước đền thờ Mạc Công đã hoàn toàn thay đổi. Toàn bộ các bờ ao được xây xi măng, ốp gạch, đường xung quanh thông thoáng, trồng mới cây cối, trở thành công viên.
Chủ tỉnh đào mồ tìm kho báu
Sau khi Mạc Cửu qua đời, sách Đại Nam liệt truyện tiền biên chép: "Mùa xuân năm Bính Thìn (1736), Túc Tông hoàng đế lập Mạc Thiên Tích làm Đô đốc trấn Hà Tiên, ban cho 3 chiếc thuyền long bài được miễn thuế, lại sai mở lò đúc tiền để tiện việc mua bán. Thiên Tích bèn chia đặt nha thuộc, tuyển quân lính, đắp thành quách, mở rộng phố chợ. Thương nhân và lữ khách các nước tụ họp đông đúc".
Có nhiều suy đoán cho rằng khối tài sản của dòng họ Mạc rất lớn và được chôn giấu đâu đó ở núi Bình San. Trên tờ Văn Hóa nguyệt san (số 80 tháng 4.1963), thi sĩ Đông Hồ có bài thuật lại câu chuyện viên chủ tỉnh người Pháp mượn cớ chỉnh trang đô thị Hà Tiên, chủ trương lấy đất đá ở núi Bình San đem lấp bãi rừng rồi cho khai quật ngôi mộ bà Nguyễn phu nhân, chánh thất của Mạc Thiên Tích, để tìm báu vật. Theo tác giả, đây là hành động có dụng ý và trước khi tiến hành công việc này, viên chủ tỉnh đã khảo cứu và đọc nhiều về lịch sử họ Mạc, nên có ý đồ tìm kho báu theo lời đồn trong dân gian.
Mùa Thanh minh năm Tân Hợi (1911), viên chủ tỉnh huy động tù nhân lưu đày ở Hà Tiên tiến hành phá núi Lăng, khai quật ngôi mộ phu nhân họ Nguyễn, dời đi nơi khác. Các tù nhân nỗ lực đập phá hơn một tuần lễ mà chưa thấu đến lòng mộ. Đến ngày thứ 10, họ nạy được tấm bia đá, lộ ra một phần trước hầm mộ, chỗ đặt áo quan. Miệng hầm mở ra đủ vài người chui lọt. Soi đèn đã thấy màu vàng son sơn thếp chiếc áo quan. Các tù nhân dừng lại chờ hương chức địa phương và con cháu họ Mạc đến chứng kiến việc bốc mộ. Sau các nghi thức, ông Mạc Tử Khâm, cháu 7 đời của dòng họ Mạc, cầm nến soi vào, nhặt từng mảnh xương vụn đưa lên.
Sau cuộc khai quật, có nhiều đồn đoán rằng có người lượm được hột nút bằng vàng, người được hột nút bằng mã não đỏ tươi, kẻ lượm được mảnh gấm đem về làm khăn ếm tà ma cho con nít ngủ khỏi giật mình. Rồi chuyện nhặt xâu tiền kẽm, dĩa sứ, lấy mảnh gỗ áo quan đem về thờ… Người ta cũng quả quyết ông Mạc Tử Khâm được viên chủ tỉnh chia cho một chiếc trâm bằng vàng có gắn kim cương. Về sau, lúc nghèo túng, ông Khâm bán lại cho một người Pháp tên là Chapuis, cai quản ngọn hải đăng ở Mũi Nai, vì dân mình không ai dám giữ của thiêng. Lại có lời đồn gia đình ông Chapuis sau khi mua chiếc trâm ấy đem về đã gặp nhiều tai nạn xui xẻo…
Riêng viên chủ tỉnh, sau khi đào mộ, trong lúc cưỡi ngựa đi gần lăng mộ họ Mạc thì bất ngờ ngựa hý vang, hất ông xuống đất, khiến phải nằm liệt nhiều ngày. Sau đó, đích thân chủ tỉnh mang lễ vật đến cúng tế tại mộ bà Nguyễn phu nhân (tức Hiếu Túc phu nhân) và mộ bà Cô Năm, hứa sẽ không động chạm đến phần mộ của họ nữa. (còn tiếp)