Nhảy đến nội dung
 

Cú hích sống còn từ Luật Di sản văn hóa sửa đổi, bài 3: Công nghệ số - tấm khiên bảo vệ di sản

TP - Sau hàng loạt vụ xâm hại di tích và di sản gây chấn động dư luận, một số địa phương và ban ngành đã bắt đầu rà soát lại hệ thống bảo vệ di tích, di sản. Những biện pháp tưởng như muộn màng này được kỳ vọng sẽ vá phần nào những lỗ hổng trong quản lý, vốn đã kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ và nhiều đời di tích.

TP - Sau hàng loạt vụ xâm hại di tích và di sản gây chấn động dư luận, một số địa phương và ban ngành đã bắt đầu rà soát lại hệ thống bảo vệ di tích, di sản. Những biện pháp tưởng như muộn màng này được kỳ vọng sẽ vá phần nào những lỗ hổng trong quản lý, vốn đã kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ và nhiều đời di tích.

Đổi mới phương thức bảo vệ để “theo kịp thời đại”

Trong nhiều thế kỷ, cộng đồng địa phương đã đóng vai trò trung tâm trong việc bảo vệ và gìn giữ di tích. Họ không chỉ là những người sống gần di tích mà còn là những người truyền giữ ký ức lịch sử, văn hóa và tâm linh gắn liền với di sản. Tại nhiều làng quê Việt Nam, các cụ già trong ban khánh tiết, những người dân thường xuyên lui tới đình, chùa đã tự nguyện đảm nhận vai trò trông coi, bảo vệ di tích mà không cần đến sự phân công chính thức.

Cú hích sống còn từ Luật Di sản văn hóa sửa đổi, bài 3: Công nghệ số - tấm khiên bảo vệ di sản ảnh 1

Sau sự cố Ngai vàng triều Nguyễn bị phá hoại, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã lắp đặt hệ thống giám sát an ninh, cảm biến cảnh báo sớm và hàng rào ảo để đảm bảo an toàn cho các hiện vật quý.

Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện đại, khi quá trình đô thị hóa và phát triển kinh tế diễn ra mạnh mẽ, vai trò của cộng đồng trong việc bảo vệ di tích đang dần bị lu mờ. Nhiều di tích bị xâm hại vì cả lý do cố ý và vô ý. Việc xây dựng, sửa chữa, trùng tu di tích mà không có sự giám sát chặt chẽ và tham vấn chuyên môn đã dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc.

Để lấp đầy những khoảng trống này, theo nhiều chuyên gia, việc xây dựng một mô hình “cộng đồng bảo vệ di sản” là cần thiết, không thể chỉ dựa vào các cơ quan chức năng. Tiến sĩ khảo cổ Nguyễn Thị Hậu cho rằng, mô hình này không chỉ dừng lại ở việc huy động người dân tham gia bảo vệ di tích mà còn bao gồm việc nâng cao nhận thức, đào tạo kỹ năng và tạo điều kiện để cộng đồng tham gia vào quá trình quản lý, giám sát và phát huy giá trị di sản”.

Đây cũng là hướng đi phù hợp với xu thế bảo tồn hiện đại trên thế giới: Việc thể chế hóa vai trò của cộng đồng cần được luật hóa để tạo hành lang pháp lý rõ ràng và bền vững.

Luật Di sản văn hóa sửa đổi năm 2024, có hiệu lực từ 1/7/2025 được kỳ vọng mở rộng vai trò của cộng đồng và khu vực tư nhân trong bảo tồn di sản. PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa, Xã hội của Quốc hội nhận định: “Một trong những điểm tiến bộ và đáng kỳ vọng nhất của Luật Di sản (sửa đổi) năm 2024 chính là tư duy mở rộng không gian tham gia vào công tác bảo tồn, đặc biệt là vai trò của cộng đồng và khu vực tư nhân. Đây là một bước chuyển quan trọng từ mô hình Nhà nước đơn độc bảo vệ di sản sang mô hình toàn xã hội cùng chung tay gìn giữ ký ức và bản sắc”.

Cú hích sống còn từ Luật Di sản văn hóa sửa đổi, bài 3: Công nghệ số - tấm khiên bảo vệ di sản ảnh 2

Hiện vật được số hóa và gắn chip bảo vệ.

Di sản không thể được bảo vệ bằng ý chí hành chính đơn thuần, mà cần một mạng lưới những người cùng hiểu, cùng yêu, cùng gắn bó với nó: Từ người dân sở tại đến nhà đầu tư văn hóa, từ nghệ nhân, nhà khoa học đến doanh nghiệp du lịch, công nghệ, truyền thông… Luật mới đã ghi nhận tinh thần đó và thiết lập những điều khoản pháp lý cụ thể để thúc đẩy xã hội hóa một cách bài bản, minh bạch và hiệu quả.

Về những điều khoản cụ thể thúc đẩy xã hội hóa trong lĩnh vực này, PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho rằng, trước tiên, luật cũng quy định rõ khái niệm xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa và xác lập vai trò chủ thể của các tổ chức, cá nhân ngoài nhà nước trong việc tham gia gìn giữ, tu bổ, phục dựng, quản lý và khai thác di sản, từ các thiết chế văn hóa cộng đồng như đình, chùa, miếu mạo… đến các công trình kiến trúc, lễ hội, tri thức dân gian.

“Luật cũng mở đường cho các mô hình hợp tác công - tư (PPP) trong bảo tồn di sản, tạo cơ sở để doanh nghiệp được tiếp cận không gian di sản, đầu tư vào hạ tầng bảo tồn, phát triển dịch vụ du lịch văn hóa, đổi lại bằng quyền lợi phù hợp và sự giám sát chặt chẽ từ cơ quan chuyên môn và cộng đồng. Điều này vừa giảm gánh nặng ngân sách nhà nước, vừa khơi thông dòng chảy vốn, sáng kiến, nhân lực từ khu vực ngoài công lập”, PGS.TS Bùi Hoài Sơn phân tích.

Bài học bảo vệ di tích của thế giới

Năm 1969, Italia đã thành lập Đơn vị Bảo vệ Di sản Văn hóa (Carabinieri TPC) - lực lượng cảnh sát chuyên trách đầu tiên trên thế giới hoạt động trong lĩnh vực gìn giữ di sản. Với nhiệm vụ giám sát, truy quét và thu hồi cổ vật, Carabinieri TPC đã thu hồi được hàng nghìn hiện vật quý bị đánh cắp, ngăn chặn hiệu quả các hoạt động buôn bán trái phép di sản văn hóa, trở thành hình mẫu mà nhiều quốc gia học tập.

Tại Hoa Kỳ, Dịch vụ Công viên Quốc gia (NPS) triển khai các biện pháp bảo vệ di tích khảo cổ bằng công nghệ như lắp đặt hệ thống camera giám sát, cảm biến chuyển động và tổ chức lực lượng tuần tra thường xuyên.

Ở những quốc gia đang đối mặt với bất ổn chính trị như Libya, việc bảo vệ di sản càng trở nên cấp thiết. UNESCO đã phối hợp với chính phủ Libya và Italia để triển khai các dự án đào tạo cán bộ, nâng cao nhận thức cộng đồng và thiết lập các biện pháp bảo vệ tại những địa điểm như Tadrart Acacus, nơi từng bị phá hoại nghiêm trọng bởi nạn vẽ bậy và đào trộm cổ vật.

Các chuyên gia cũng chỉ ra một điểm đáng chú ý: Luật đã tăng cường vai trò quyết định và quyền giám sát của cộng đồng cư dân gắn bó trực tiếp với di sản. Họ được tham gia vào quy trình đánh giá tác động, thiết kế phương án bảo tồn, phản biện kế hoạch phát triển. Điều này giúp hạn chế những bảo tồn “từ trên xuống” thiếu đồng thuận xã hội, và thay vào đó là cách làm “từ dưới lên”, nơi mà di sản thực sự sống trong lòng dân, chứ không chỉ nằm trong hồ sơ.

Bước ngoặt với công nghệ số

Công nghệ số, gồm scan 3D, VR/AR, cơ sở dữ liệu tập trung và giám sát thông minh đang trở thành cánh tay đắc lực trong bảo vệ di sản, giúp lưu giữ nguyên trạng khi xảy ra sai sót hoặc thiên tai. Tính đến năm 2030, chương trình số hóa di sản tại Việt Nam đặt mục tiêu số hóa 100% di tích quốc gia đặc biệt và bảo vật quốc gia.

Sau sự cố Ngai vàng triều Nguyễn bị phá hoại tại điện Thái Hòa vào tháng 5/2025, Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế đã nhanh chóng đưa bảo vật quốc gia này về bảo quản an toàn tại kho lưu trữ. Một bản phục chế được trưng bày thay thế để phục vụ du khách. Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế cũng triển khai phương án bảo vệ chi tiết cho từng bảo vật, bao gồm việc lắp đặt hệ thống giám sát an ninh, cảm biến cảnh báo sớm và hàng rào ảo, nhằm đảm bảo an toàn cho các hiện vật quý.

Tại Hà Nội, công nghệ quét 3D đã được áp dụng thành công tại đình Tiền Lệ, tạo ra mô hình tương tác nguyên trạng, giúp phát hiện sai sót khi tu bổ. Hoặc tại chùa Diệu Đế (Huế), bức tranh Long Vân Khế Hội cũng đã được số hóa bằng scan 3D với độ phân giải cao, phục vụ việc bảo quản và phục chế kịp thời.

Một số bảo tàng và khu di tích quốc gia đặc biệt như Văn Miếu - Quốc Tử Giám hay di sản thế giới Hoàng thành Thăng Long đã triển khai mô hình VR và hệ thống camera giám sát kết hợp cơ sở dữ liệu tập trung, tăng tính chủ động trong quản lý và phát hiện hành vi xâm hại.

PGS.TS Lê Thị Thu Hiền, Cục trưởng Cục Di sản Văn hóa nhìn nhận, dù trước đây số hóa mới chỉ “là ban đầu”, các ứng dụng VR/AR hiện đại đã thúc đẩy việc bảo vệ di tích trở nên chủ động và thông minh. “Công nghệ không chỉ bảo tồn mà còn góp phần giáo dục và nâng cao trải nghiệm, đồng thời giảm áp lực lên thực địa”, bà cho biết.

Tạo dựng cơ sở dữ liệu khổng lồ về di sản văn hóa Việt Nam

Không riêng di tích vật thể, kho tàng di sản văn hóa phi vật thể - bao gồm lễ hội, nghệ thuật trình diễn dân gian, tập quán xã hội, tiếng nói, tri thức dân gian... - cũng đứng trước nguy cơ mai một, cần được số hóa. Những giá trị sống động từng tồn tại trong ký ức, trong thực hành của cộng đồng đang dần được hiện hữu rõ nét bằng những hình ảnh, âm thanh tư liệu trên môi trường số.

Một trong những nỗ lực tiêu biểu đến từ Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam (Bộ VHTTDL). Viện đã triển khai số hóa các cơ sở dữ liệu như số hóa các cơ sở dữ liệu di sản văn hóa phi vật thể từ các thiết bị cũ sang lưu trữ và khai thác trên môi trường internet. Đến nay, hơn 7.700 biểu ghi số được xây dựng, tập trung vào lĩnh vực văn hóa và nghệ thuật; hơn 700 đề tài thuộc lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào cơ sở dữ liệu dùng chung...

Đặc biệt, di sản hát Xoan của Phú Thọ từng được UNESCO xếp vào danh mục cần bảo vệ khẩn cấp đã được số hóa toàn diện, bao gồm tư liệu lời ca, động tác trình diễn, không gian trình diễn… góp phần quan trọng đưa di sản hát Xoan thoát khỏi danh mục cần bảo vệ khẩn cấp, trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2017.

HẠNH ĐỖ - NGUYÊN KHÁNH
 
 
 
logo
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN

GPĐKKD: 0103884103 do sở KH & ĐT TP Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Địa chỉ: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season,  47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

MIỀN BẮC

Địa chỉ Showroom: D11-47 KĐT Geleximco Lê Trọng Tấn, Hà Đông, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

MIỀN NAM

Địa chỉ VPGD: 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn