Hà Tiên thập cảnh: Di tích xưa trên núi Bình San

Theo thi sĩ Đông Hồ, "Bình San là dãy núi dựng như bức bình phong, ở sau thành Hà Tiên. Điệp là trùng trùng điệp điệp… Bình San điệp thúy là ngọn núi như tấm bình phong sắc xanh lớp lớp". Đây là thắng cảnh thứ 2 trong Hà Tiên thập cảnh.
Đền thờ dòng họ Mạc
Bình San (P.Hà Tiên, An Giang - trước đây là TP.Hà Tiên, Kiên Giang) còn gọi là núi Lăng, vì trên núi có quần thể lăng mộ dòng họ Mạc và những người có công khai phá vùng đất này. Ngọn núi không cao lắm, bắt đầu từ phía biển Kim Dự chạy dài gần hết mặt tây thành Hà Tiên cũ. Nằm dưới chân núi là đền thờ họ Mạc, người địa phương thường gọi là miễu Ông Lịnh hay Mạc Công miếu, Mạc Công từ.
Đền thờ có lối kiến trúc theo dạng chữ Tam, gồm 3 dãy nhà song song với đông lang, tây lang, ở giữa là chánh điện. Chánh điện là một ngôi nhà trệt 3 gian, nền lót gạch da quy, trên treo các bộ hoành phi chạm trổ tinh xảo và nhiều liễn đối. Đây là nơi thờ phượng 3 vị nhân thần được các vua nhà Nguyễn sắc phong: Trung đẳng thần Mạc Cửu, Đạt nghĩa chi thần Mạc Thiên Tích và Trung nghĩa chi thần Mạc Tử Sanh. Ở vị trí thấp hơn nơi chánh điện còn thờ ông Mạc Tử Hoàng và ông Mạc Tử Thiêm, là 2 vị từng làm Hiệp trấn và Trấn thủ Hà Tiên. Ngoài ra, phía bên phải thờ liệt vị phu nhân và phía bên trái thờ liệt vị tướng quân.
Trước 3 gian thờ có một hộp gỗ sơn đỏ đựng các lá sắc của triều đình nhà Nguyễn phong cho 3 ông Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích và Mạc Tử Sanh. Các đạo sắc này hiện đã được phóng lớn treo ở khuôn viên bái đình để phục vụ khách tham quan. Phía trước gian thờ là dàn lỗ bộ rất oai nghiêm. Hai bên vách tường chép các bài văn, thơ, vịnh… của người xưa.
Theo thư tịch, đền thờ đầu tiên được Mạc Công Du (con của Mạc Tử Hoàng) lập năm 1818 ở bên trái chùa Tam Bảo. Đến năm 1833, con của Mạc Công Du là Mạc Hầu Hi theo Lê Văn Khôi làm phản ở Gia Định. Mạc Công Du và các con có cộng tác với Lê Văn Khôi, vì vậy sau khi cuộc nổi loạn bị dập tắt, cả nhà bị tội tru di. Từ đó đền thờ Mạc Công bị bỏ hoang phế. Đến năm 1846, nhờ Trương Đăng Quế tâu xin, vua Thiệu Trị nghĩ đến công lao mở đất của hai ông Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích nên cho dựng lại đền thờ, phục hồi danh vị họ Mạc.
Đền thờ mới tọa lạc dưới chân núi Bình San, nhưng vì xây cất bằng gỗ, lợp ngói nên chỉ vài chục năm sau bị hư dột. Đến năm 1897, ông Nguyễn Thần Hiến, chí sĩ phong trào Đông Du thảo bài văn kêu gọi người dân Hà Tiên góp công, góp của trùng tu lại và công việc kéo dài đến năm 1901. Trong đợt trùng tu này, có cất thêm nhà võ ca, bức tường bao quanh ngôi đền và cổng tam quan. Trên cổng giữa là 3 chữ Mạc Công miếu. Hai bên có đôi liễn khắc: "Nhất môn trung nghĩa gia thanh trọng/Thất diệp phiên hàn quốc sủng vinh". Nghĩa là "Một nhà trung nghĩa danh thơm cả họ/Bảy lá chống che cả nước mến yêu".
Năm 1959, một tấm bia đá được xây ở bức tường phía đông lang, ghi tên những người đã cúng tiền để trùng tu. Năm 2002 và 2012, ngôi đền tiếp tục được trùng tu, nhưng vẫn giữ theo kiến trúc ban đầu.
Và cây bạch mai 300 năm tuổi
Con đường bậc thang lên núi Bình San xuyên qua khoảng rừng có nhiều cây xoài, cây dừa cổ thụ xanh mát. Trên núi còn có cây bạch mai, còn gọi là mai mù u. Theo tường thuật của tác giả Tân Việt Điểu trên tờ Văn Hóa nguyệt san (1960): "Phía trái đường lên lăng có cây bạch mai treo tấm bảng đưa từ Quảng Tây qua từ năm 1720. Cây này là cây con mới trồng sau, còn cây nguyên xưa đã rụi". Cây bạch mai này hiện nay vẫn còn, cao vút, nhưng tàng không lớn vì chen trong đám cây tạp.
Theo bảng kê ở đền thờ thì tổng cộng có 46 ngôi mộ đã được đánh số, xác định tên tuổi. Ngôi mộ Mạc Cửu xây theo hình vòng cung. Hai bên có tượng đá thanh long, bạch hổ phủ phục. Ba bệ xi măng làm bàn hương án, hai tượng võ tướng đứng hầu.
Từ dưới đi lên, trước khi tới lăng mộ Mạc Cửu là mộ Mạc Tử Hoàng, kiến trúc cũng giống như mộ Thái công Mạc Cửu nhưng không có thanh long, bạch hổ và tượng võ tướng đứng hầu. Ngôi mộ của Tổng binh Mạc Thiên Tích nằm xa hơn, phía bên phải, cũng tương tự.
Sách Mạc Thị gia phả chép vào năm 1777, sau khi Định vương Nguyễn Phúc Thuần bị Tây Sơn bắt ở Long Xuyên, trong lúc Mạc Thiên Tích cùng tùy tùng đang trên thuyền định sang nước Đồ Bà (Malaysia) thì vua Xiêm bấy giờ là Trịnh Nhã Tân cho tàu ra đón. Trong tình thế bất đắc dĩ, ông buộc phải theo về Xiêm La và lúc đầu được đối đãi tử tế. Năm sau, quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhân lấy lại được Gia Định, chúa Nguyễn Ánh cử sứ thần mang quốc thư sang giao hảo với Xiêm La.
Biết được tin đó, Tây Sơn dùng kế phản gián, giả bức mật thư rồi cho người mang sang Xiêm, đại ý rằng khi nào chiến thuyền Đông Sơn tới Xiêm La thì lập tức theo kế nội ứng ngoại hợp. Bắt được người mang thư, Trịnh Nhã Tân liền sai bắt Nguyễn Phúc Xuân (con chúa Nguyễn Phúc Khoát) cùng thân quyến Mạc Thiên Tích giam hết vào ngục. Khi được tin Đông Sơn điều động chiến thuyền đề phòng quân Tây Sơn, Trịnh Nhã Tân tin rằng Đông Sơn chuẩn bị đánh Vọng Các. Vì vậy đã sai người đem Nguyễn Phúc Xuân và Mạc Thiên Tích ra tra khảo. Tham tướng Mạc Tử Dung vì bênh vực Mạc Thiên Tích liền bị giết.
Ngày 5 tháng 10 năm Canh Tý (1780), Mạc Thiên Tích uống thuốc độc tự tử. Nguyễn Phúc Xuân bị đánh đau nhận bừa, cũng không thoát. Ngày 24 tháng 10 năm Canh Tý, Tân sai đem Nguyễn Phúc Xuân cùng thân quyến và thuộc hạ 36 người, 2 sứ giả Đông Sơn và 17 tùy tùng ra giết hết... (còn tiếp)