Quốc sách cho quốc bảo

Mắt tôi tối sầm. Ký ức tua nhanh: từ cậu sinh viên kiến trúc lần đầu chiêm ngưỡng ngai vàng - đến giảng viên dẫn sinh viên kiến tập hàng năm - rồi làm luận văn tiến sĩ đề tài bảo tồn di sản, nâng niu từng viên ngói, cấu kiện, hoa văn. Tình yêu di sản trong tôi được bồi đắp theo năm tháng.
Trong hành trình nghiên cứu và giảng dạy quy hoạch - kiến trúc, tôi từng thăm nhiều quốc gia, khảo sát nhiều không gian biểu tượng quốc thể với nhiều bảo vật: từ Tử Cấm Thành Bắc Kinh tới hoàng cung Tokyo và cung điện Gyeongbokgung; từ cung Versailles, bảo tàng Louvre tới cung Buckingham, bảo tàng Anh; từ tòa thánh Vatican tới giáo đường Hagia Sophia; từ đền Parthenon đến nhà tưởng niệm Lincoln. Ngai Takamikura ở Kyoto hay ngai vua - nữ hoàng ở London chỉ xuất hiện dịp lễ đăng quang và trưng bày vài ngày (xem ảnh). Ngai Thánh Peter (tức Phê-rô) ở Vatican nằm trong hậu cung, chỉ hiện diện trong vài nghi lễ đặc biệt.
Các bảo vật quyền lực tối cao đều được trưng bày trong không gian và lớp an ninh vững chắc, giữ khoảng cách vật lý - tâm lý với người xem, không dễ tiếp cận như ở điện Thái Hòa.
Về không gian tổng thể, ngai vàng triều Nguyễn tọa lạc tại vị trí "năm tầng bậc trung tâm" của không gian di sản thế giới: Quần thể di sản - Đại Nội - điện Thái Hòa - gian giữa - ngai vàng. Tầng sau nối tầng trước, hội tụ dần về trung tâm của mọi trung tâm.
Với cấu trúc ấy, ngai vàng không chỉ kết tinh quyền lực triều Nguyễn mà còn là biểu tượng cao nhất của cả quần thể di sản thế giới; không chỉ là bảo vật quốc gia mà còn mang tầm báu vật Á Đông và xa hơn, cần được bảo vệ bằng tâm thế tương xứng.
Giả sử ngai vàng được tu sửa thành công, thì điều dư luận quan tâm là sau đó nên trưng bày sao cho an toàn? Tôi xin đề xuất vài phương án:
Phương án 1 - "Tàng bảo vật - hiển bản sao": Trưng bày bản sao, ngai thật lưu kho, chỉ rước ra dịp trọng đại. Ưu điểm là bảo vệ tuyệt đối, tăng tính thiêng, phù hợp ngân sách hạn chế. Nhược điểm là giảm cảm xúc do không thấy hiện vật gốc, và các bảo vật khác có rủi ro nếu nội điện vẫn mở.
Phương án 1b - "Bảo mật cao - thăm giới hạn": Trưng bày ngai thật bằng công nghệ cao trong một không gian kín ở hậu điện, bán vé bổ sung để vào xem. Ưu điểm là phục vụ nhóm khách quan tâm cao, tạo nguồn thu duy trì công nghệ bảo vệ. Tôi từng thấy cách thu phụ phí này ở vài nơi.
Phương án 2 - "Hiển bản thật - Kính bảo an": Giữ ngai thật tại chỗ, đặt trong hộp kính chịu lực. Ưu điểm là giữ nguyên cảm nhận không gian, kính bảo vệ tốt. Còn nhược điểm là có thể ảnh hưởng thẩm mỹ và hiệu ứng thị giác tổng thể.
Phương án 3 - "Hiển bản thật - Chiêm bái vọng": Giữ ngai thật nhưng không cho vào nội điện, chỉ ngắm từ xa qua ba ô cửa lớn, có hàng rào bảo vệ. Ưu điểm là ngăn tiếp cận bất ngờ, bảo vệ bảo vật khác; giữ được sự trang nghiêm. Nhưng nhược điểm là trải nghiệm bị hạn chế do khoảng cách.
Đồng thời, cần đẩy mạnh số hóa di sản: dùng AR tại chỗ để tái hiện các bảo vật trong không gian thực; kết hợp VR hoặc hologram để mang báu vật tới mọi miền đất nước và quốc tế - như gian Việt Nam tại Expo thế giới. Tổ chức trưng bày bản sao hay phiên bản số luân phiên tại các bảo tàng lớn - để cả người già, trẻ nhỏ hay bệnh nhân không thể đến Huế vẫn được chiêm ngưỡng.
Nhưng trưng bày là vế sau lâu dài. Việc trước mắt là phục chế ngai vàng.
Hồ sơ tiến cử ngai vàng thành bảo vật quốc gia năm 2015 cho biết: hiện vật khi ấy đã xuống cấp: mộng gỗ hở, kính vỡ, sơn bong, tay ngai gãy buộc tạm bằng dây thép. Mức độ hư hỏng cho thấy tính nguyên bản đã giảm, tạo dư địa cho phục chế. Hai năm trước ngai cũng đã được scan 3D.
Trên thế giới, ngai vàng được tu sửa ra sao? Ngai Takamikura của Nhật phục chế định kỳ bằng kỹ thuật "tháo - kiểm - phục - lắp", kết hợp thủ công và công nghệ. Ngai Thánh Peter ở Vatican chỉ được tiếp cận cực kỳ hạn chế và can thiệp sau hàng thập kỷ, dựa trên công nghệ scan tiên tiến. Dù khác nhau, cả hai đều tuân thủ nguyên tắc: can thiệp tối thiểu, bảo toàn vật liệu gốc, kết hợp truyền thống với hiện đại.
Với cấu kiện gỗ gãy như tay ngai, kinh nghiệm quốc tế cho thấy ba nguyên tắc: tôn trọng vật liệu gốc, phân biệt rõ phần cũ - mới (để sau tiện phục chế), đảm bảo khả năng hoàn nguyên. Một số nước châu Âu kết hợp thủ công tinh xảo với vật liệu hiện đại: keo sinh học tháo được, epoxy không xâm thực, giằng nối bằng sợi carbon hay thép không gỉ. Nhật dùng nhiều kỹ thuật mộng tháo - lắp không đinh như kanawatsugi, tôi từng soi kỹ trong kinh ngạc và thán phục. Điện Thái Hòa từng được chuyên gia Nhật hỗ trợ trùng tu, có thể tham vấn họ.
"Biến họa thành cơ", từ kinh nghiệm quốc tế, tiến hành scan 3D "khám tổng thể" ngai vàng và chẩn đoán hiện đại, rồi áp dụng hướng tháo - kiểm - lắp. Đây là cơ hội thí điểm và lập tiêu chuẩn mới trong bảo tồn bảo vật: nghiêm cẩn - khoa học - bền vững.
Sau mỗi vết nứt, nếu chữa lành đúng cách, có thể tạo nên một câu chuyện mới giàu cảm hứng về cách quốc gia đối xử với ký ức của mình.
Chính phủ và Bộ Văn hóa đang nhanh chóng chỉ đạo kiểm tra và phục hồi ngai vàng - và nhân việc này, mở ra cơ hội kiểm tra, rà soát và cải tiến phương thức bảo tồn - bảo tàng trên cả nước. Các đơn vị như Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử - nơi lưu trữ nhiều bảo vật như trống đồng, tượng, bình cổ, tranh quý - cũng họp khẩn bàn đối sách như công nghệ cao cho bảo an và cân nhắc trưng bày bản sao. Đây là những phản ứng rất tích cực.
Lâu nay, ta áp dụng tinh thần nhân văn: xác thực (bản thật) - dễ tiếp cận (gần gũi) - chi phí thấp (đầu tư ít, vé rẻ). Nhưng thời đại đầy biến động, cách tiếp cận ấy không còn phù hợp. Nhìn từ quản trị rủi ro và kịch bản xấu: càng quý báu càng phải tránh rủi ro. Dễ tiếp cận đồng nghĩa với dễ tổn thương. Ngai vàng là vụ việc đau xót: không còn là rủi ro - mà là tổn thất khó phục hồi.
Bình dân hóa báu vật dễ làm nhạt linh thiêng. Cách Nhật trưng bày long trọng Takamikura khiến tôi gai người. Việt Nam cũng vừa chứng kiến cách trưng bày tôn kính xá lợi Phật - khiến cảm giác linh thiêng dâng cao.
Sẽ hoàn chỉnh hơn nếu một số biện pháp sau đó được thể chế hóa thành quy phạm bắt buộc trên toàn quốc - như cách nhiều nước, trong đó có Nhật, thường làm qua cơ chế "phản hồi - hoàn thiện" (feedback loop).
Về thể chế, Công ước UNESCO 2003 yêu cầu thiết lập cơ chế "xác định - bảo tồn - phát huy - truyền dạy" di sản. Luật Di sản 2024 cũng đã bổ sung yêu cầu về nhân lực, thiết bị, công nghệ và môi trường bảo quản bảo vật - đồng thời mở đường cho ngân sách đầu tư bảo vệ di sản (Điều 52, 46).
Với ngân sách hạn chế, cần phân loại di vật để đầu tư, ưu tiên giải pháp hiệu quả: gắn thẻ định vị RFID, rào điện tử báo động, camera AI giám sát và phát hiện hành vi bất thường... Các công cụ này đã phổ biến ở các bảo tàng quốc tế và khả thi với Việt Nam. Đội ngũ bảo vệ cũng cần đào tạo chuyên nghiệp: có võ, phản ứng nhanh, và ý thức rõ mình là "người gác đền" mang trọng trách và vinh dự lớn lao.
Về dài hạn, cần cải cách giáo dục và nhận thức ký ức. Ngai vàng và các di sản văn hóa quan trọng phải đi vào sách giáo khoa, phim tài liệu, và phổ cập trong cộng đồng qua công nghệ như VR, AR - để kể câu chuyện lịch sử một cách sống động. Biết đâu sau này, bảo vật không chỉ có phiên bản số, "bản mệnh số", mà cả "hình đại diện" trên các nền tảng số, website văn hóa.
Cộng đồng - đặc biệt là các chuyên gia, nghệ nhân, hướng dẫn viên, giáo viên và học sinh - có thể tham gia bảo tồn và lan tỏa sâu rộng tình yêu di sản. Di vật không còn ký ức cộng đồng sẽ trở nên vô hồn - như chiếc bóng bị lãng quên.
Song song với Hội đồng Di sản Quốc gia, đã đến lúc cần một trung tâm nghiên cứu - ứng dụng liên ngành di sản - công nghệ - giáo dục. Trung tâm này sẽ ứng dụng công nghệ vào bảo tồn, hiến kế xây dựng quy chế theo chuẩn mực cao nhất, và lan tỏa giáo dục di sản. Đây có thể là sáng kiến hợp tác liên ba bộ Văn hóa, Khoa học - Công nghệ, và Giáo dục, đặt dưới khung Luật Di sản 2024 và Nghị quyết 57 về đột phá khoa học - công nghệ. Để bền vững tài chính, theo tinh thần Nghị quyết 68, khu vực tư nhân có thể đồng hành cùng Quỹ Bảo tồn Di sản Văn hóa - hỗ trợ công nghệ hóa bảo tồn và giáo dục - và được vinh danh.
Cần xây dựng quy trình cải tiến khép kín, trong đó mọi sự cố hay tổn thất di sản đều phải dẫn đến thay đổi hệ thống và chính sách - không dừng ở giải pháp tình thế. Sau này, lịch sử sẽ chất vấn: ta đã đủ nghiêm cẩn với kho báu di sản chưa?
Đã đến lúc di sản cần một hệ sinh thái mới - giao thoa giữa bảo tồn bảo tàng, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và giáo dục. "Kiềng ba chân" di sản - công nghệ - giáo dục sẽ có thể chế dẫn đường, công nghệ làm bệ phóng, và giáo dục giữ lửa ký ức.
Và tất cả phải được nâng lên tầm quốc sách.
Chữa lành những vết gãy vật thể và tâm lý hôm nay cũng là cách nối liền ký ức và tương lai dân tộc. Giữ được gì? Đánh mất gì? Những câu hỏi ấy không thể trả lời bằng lời - mà bằng thể chế và hành động.
Tô Kiên