Thời Pháp thuộc, mẹ tôi là Đàm Thị Khánh - người được gọi là "Tây học" cùng với con em nhà quyền quý, đậu diplome thời xưa trong các trường Tây hiếm lắm.
Mẹ nói tiếng Pháp như tiếng Việt và là nhà giáo theo chồng ra chiến khu đi kháng chiến. Sau đó về sống ở Quảng Yên, Hà Nội rồi ở lâu nhất tới tận lúc mất tại TP Hải Phòng.
Chúng tôi được sự rèn luyện dạy dỗ của mẹ cũng khác các bạn, dân chủ hơn, mẹ cho phép các con tranh cãi nếu thấy đúng. Với các bạn cùng lứa thời đó, như vậy là lạ lắm.
Thường mẹ nào cũng thích thấy con chăm học thâu đêm nên bạn bè tôi hay vui cười có ý lạ lùng kể lan truyền cho nhau nghe "chuyện lạ" ở nhà tôi. Là vì mẹ tôi ra lệnh chỉ học tối tới 8h là phải đi ngủ. Và cứ đúng giờ mẹ lấy mất cây đèn dầu đem xuống bếp để đánh tam cúc với bạn bè. Ngày ấy quê tôi làng La Khê - Quảng Yên chưa có điện.
Khi chúng tôi đi thi về cũng vậy. Ai chẳng lo lắng hồi hộp hỏi con cháu làm bài được không. Mẹ tôi thì chẳng hỏi gì.
Bà con thấy lạ thì mẹ bảo: "Học là phải chăm phải giỏi cả quá trình chứ đâu tới lúc thi. Đã học thì đi thi phải làm được bài. Không cần hỏi".
Mẹ tôi tính nóng khác lạ. Những "tội" để phải đòn ở nhà tôi cũng không giống ai. Thí dụ làm hỏng, làm bể vỡ đồ đạc vật chất như nhà khác chết đòn thì ở nhà tôi, lỗi nói dối bị phạt nặng hơn.
Một câu chuyện do hàng xóm kể sau này khi mẹ tôi đã là bà giáo già yếu sống ở xóm ven đô. Chúng tôi đã đi làm ăn tứ xứ xa quê. Mẹ ở với con gái út. Cô ấy làm phó giám đốc một xí nghiệp nên bận rộn suốt ngày. Mẹ ở nhà một mình nhìn qua cửa sổ ra khu vườn vắng với đứa cháu họ ở quê ra chăm.
Những tưởng một bà cụ già yếu thế không làm gì được nữa. Nhưng thật ra mẹ rất có uy tín với làng xóm. Bữa ấy bà con trong xóm hớt hải chạy vào mách mẹ tôi: Có bà mẹ ghẻ đang đánh con chồng đau lắm, không ai dám can vì bà đó là vợ trẻ của một ông "làm quan gì to lắm".
Mẹ tôi lập cập chống gậy cùng bà con kéo đến ngôi nhà đang vang tiếng van lạy của đứa trẻ. Mẹ vung gậy quát lớn: "Có thôi đi không? Tôi sẽ lên thẳng cơ quan cô để tố cáo".
Bà kia tức lắm nhưng vội im bặt không dám nói một lời.
Dân xóm lại dìu về nhà cho mẹ nằm. Vì cơn giận quá làm bà như muốn xỉu.
Nhiều năm trôi qua, bây giờ mẹ tôi đã mất. Mộ cũng đã đưa về quê Sơn Tây. Ngôi nhà cũng đã bán vì không có ai ở. Chúng tôi sống mãi TP.HCM phương Nam.
Nhưng lòng con luôn hướng về quê xa, nơi cánh đồng làng "tôi nhớ Ba Vì mây trắng lắm" (thơ Quang Dũng). Ở đó có ngôi mộ lạ hình cánh sen do cậu tôi xây. Cậu tôi là kiến trúc sư Đàm Quang Việt cũng là tác giả bức tượng Đức Thánh Trần trên đồi Hải Khâu thuộc bán đảo Phương Mai, Quy Nhơn (cũ). Bà con làng chài ở đó vẫn thờ cúng.
Thương nhớ cha mẹ, từ phương Nam tôi hướng về đất Bắc - nơi có mẹ tôi - người phụ nữ Tây học theo chồng đi kháng chiến, một mình gồng gánh đàn con thơ.
Mẹ một mình nuôi đàn con, mãi tới ngày 10-10-1954 giải phóng thủ đô mẹ dẫn chúng tôi ra phố đón đoàn quân "Năm cửa ô đón chào - Đoàn quân tiến về...", trong đoàn quân đó có cha tôi đi chiến trận bao năm mới về đoàn tụ vợ con.
Từ nơi xa khi nhớ cha mẹ, trong tôi như văng vẳng câu hát:
Ai về sau dãy núi xanh lơ
Nhắn rằng tim tôi không phai mờ...
Ở nơi đó có mẹ tôi - người phụ nữ Tây học - chấp nhận cuộc sống kháng chiến, xa chồng, một mình nuôi dạy chúng tôi lớn khôn...