Sự chuyển mình ấn tượng của Việt Nam dưới góc nhìn chuyên gia Mỹ

Mối liên kết giữa Việt Nam và Murray Hiebert, chuyên gia cấp cao tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington, kiêm trưởng nhóm nghiên cứu của tổ chức tư vấn chính sách Bower Asia, đã trải dài khoảng 5 thập kỷ.
Ông đặt chân đến Hà Nội lần đầu tiên vào năm 1976, ở tuổi 33, khi còn là một nhà báo, cảm nhận rõ những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong công cuộc tái thiết sau khi chiến tranh khép lại. Ông từng là phóng viên thường trú cho Far Eastern Economic Review ở nhiều quốc gia Đông Nam Á, cựu phóng viên về châu Á cho Wall Street Journal, theo dõi hành trình thoát cô lập của Việt Nam và hội nhập quốc tế.
Hiebert đã cùng VnExpress nhìn lại quá trình hội nhập và phát triển của Việt Nam, cả ở tư cách một nhà báo nước ngoài từng thường trú tại Hà Nội và về sau là chuyên gia hàng đầu về khu vực Đông Nam Á.
- Từ chuyến thăm đầu tiên đến lần trở lại gần đây nhất, ông cảm nhận thế nào về những đổi thay của Việt Nam?
- Lần đầu tiên tôi đến Việt Nam là vào tháng 6/1976, chỉ 13 tháng sau khi chiến tranh kết thúc. Khi đó Hà Nội rất nghèo, phố Khâm Thiên vẫn còn nhiều nơi đổ nát, hệ thống điện chập chờn. Chẳng có gì hoạt động ổn định cả.
Phương tiện giao thông chủ yếu là xe đạp, chắc phải có cả triệu chiếc xe đạp. Chỉ có vài chiếc Lada của Liên Xô dành cho quan chức hoặc nhà ngoại giao. Thực phẩm ít ỏi, người dân mặc những loại quần áo đơn giản. Điều đó cũng dễ hiểu, khi Việt Nam vừa bước qua chiến tranh.
Các nhà ngoại giao đều sống ở khách sạn, chẳng hạn như ở Metropole, lúc đó đã xuống cấp nghiêm trọng, hoặc khách sạn Thắng Lợi ở khu Hồ Tây. Họ có những căn phòng rất lớn cho khách thuê, các đoàn ngoại giao sử dụng làm nơi ở kiêm luôn phòng làm việc. Văn phòng Liên Hợp Quốc đặt ngay trong khách sạn Metropole.
Ngày nay, Việt Nam đã xây dựng lại và nâng cấp chính mình. Hà Nội và TP HCM đã thay đổi hoàn toàn về hạ tầng. Mỗi thành phố đã có một tuyến metro. Bầu không khí cũng khác xa, náo nhiệt và nhộn nhịp. Lần gần nhất tôi đến Việt Nam là năm 2023, có rất nhiều ôtô và xe máy, cũng có nhiều nhà hàng ngon.
Năm 1976, tôi cảm thấy bầu không khí mệt mỏi ở Hà Nội, vì thành phố này chỉ mới vừa bước khỏi những năm tháng bom đạn. Giờ đây tôi cảm nhận được sự phấn khởi khắp nơi. Ai cũng hiểu rằng con đường hiện đại hóa của Việt Nam sẽ rất gian nan và cần nhiều thời gian. Tôi nghĩ, có lẽ quá trình này đã diễn ra nhanh hơn nhiều người từng dự đoán.
Khác biệt lớn nhất giữa hai thời đại có lẽ là tâm thế tự tin ở các cán bộ và quan chức, họ rất tự tin vào năng lực của mình. Nhiều người được đào tạo ở nước ngoài, ở trình độ rất cao. Nhìn lại Việt Nam giữa năm 1975 và năm 2025, sự chuyển mình diễn ra rõ rệt như ngày và đêm, như so sánh sao Hỏa và sao Kim khác nhau thế nào.
- Trong thập niên 1990, ông là phóng viên theo dõi châu Á, trong đó có Việt Nam. Đây cũng là thời điểm Việt Nam tìm cách phá thế bao vây cấm vận và hội nhập khu vực. Kỷ niệm nào từng khiến ông ấn tượng nhất về giai đoạn này?
- Một câu chuyện thú vị là vào khoảng năm 1993 - 1994, Scott Marciel, nhà ngoại giao Mỹ đầu tiên đến Hà Nội, không thể chuyển tiền qua ngân hàng do lệnh cấm vận. Ông ấy phải mang toàn bộ tiền mặt cần dùng từ Bangkok sang, từ ăn uống đến đi lại. Chi tiết đó cho thấy Việt Nam bị cô lập như thế nào và sự xa cách với Mỹ khi đó lớn ra sao, rất khác so với bây giờ khi bạn có thể dùng thẻ tín dụng hoặc chuyển tiền dễ dàng giữa hai nước.
Đầu thập niên 1990, Việt Nam theo chủ trương mở cửa nhưng vẫn bị bao vây, cấm vận. Vấn đề Campuchia và quan hệ với Trung Quốc vừa được giải quyết xong. Mỹ đang tiến những bước đầu trong dỡ bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Sau đó cần thêm thời gian để Việt Nam hội nhập ASEAN.
Mỗi bước đi đều là chặng đường dài, không phải là đơn giản búng tay một cái rồi bảo "chúng ta bình thường hóa xong rồi nhé", khi phía sau hậu trường vẫn còn rất nhiều vấn đề cần được giải quyết. Đây là một hành trình rất gập ghềnh, không phải dễ dàng như chúng ta bây giờ nhìn lại.
Tôi có mặt ở Hà Nội vào thời điểm Mỹ dỡ bỏ cấm vận năm 1994. Mọi người ăn mừng rất huyên náo, tôi vẫn nhớ hình ảnh Coca-Cola dựng một chai khổng lồ cao khoảng 4-5 m trước Nhà hát Lớn.
Vì quá trình bình thường hóa có nhiều khó khăn, tôi từng nghĩ quan hệ Việt - Mỹ cũng sẽ tiến chậm. Khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 - 1998 cũng làm mọi thứ chậm lại, vì khu vực ASEAN chịu tác động rất nặng nề. Đến những năm 2000, rồi thập niên 2010, quan hệ thực sự tăng tốc. Năm 2023, hai nước đã nâng cấp lên Đối tác chiến lược toàn diện, điều mà cá nhân tôi không ngờ có thể diễn ra nhanh như vậy.
- Nhìn lại hành trình của Việt Nam từ quốc gia bị bao vây, cấm vận, đến nay là thành viên tích cực trong ASEAN, làm đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện của cả 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, ông có đánh giá thế nào?
- Giữa các nước lớn có nhiều căng thẳng, nhưng Việt Nam vẫn "đi dây" cân bằng. Tôi ấn tượng với việc Việt Nam duy trì được quan hệ tốt với mọi bên.
Việt Nam đã chủ động trong mối quan hệ với đối tác cường quốc, đặc biệt là với Trung Quốc và Mỹ, và cả các nước châu Âu. Việt Nam rất chủ động xây dựng quan hệ thương mại, mở rộng các mối quan hệ, đa dạng hóa đối tác.
Đây là chính sách đối ngoại "đa hướng" và lựa chọn này của Việt Nam đã được nhìn nhận rất tích cực. Thành quả ngoại giao của Việt Nam thật sự khiến mọi người bất ngờ, nó thể hiện sự chủ động và tư duy có tính chiến lược. Ở những nơi mà tôi từng sống và làm việc, những người mà tôi quen biết đều theo dõi Việt Nam sát sao.
Ở Washington, thật sự khó để đại sứ quán một nước tạo được sự chú ý, nhưng Việt Nam rất năng động. Nhiều bên đã chia sẻ với tôi rằng: "Tôi không thể hiểu được vì sao Việt Nam lại có nhiều đầu mối liên lạc ở Đồi Capitol đến thế, ở đủ mọi ban ngành trong chính phủ".
Tôi chỉ đáp lại rằng bản thân mình cũng thắc mắc, nhưng có lẽ là nhờ Việt Nam rất năng động: "Các bạn ngồi trong đại sứ quán của mình và chờ mặt trời rọi chiếu đến chỗ mình. Người Việt Nam, họ sẽ lao ra ngoài, đi khắp mọi ngõ ngách, tiếp xúc đủ mọi người".
Rất nhiều người ganh tị với Việt Nam, không hiểu bằng cách nào các bạn phát triển mạng lưới đối tác kinh tế nhiều và nhanh đến vậy, có rất nhiều thỏa thuận thương mại và nhiều hơn hẳn những nước láng giềng. Các công ty đi khắp khu vực Đông Nam Á để tìm kiếm nơi phù hợp rồi cuối cùng sẽ dừng chân ở Việt Nam.
Các công ty chọn đầu tư ở Việt Nam một phần vì người Việt rất giỏi nhận ra công ty đó muốn những gì ở mình. Không có chuyện Việt Nam để cho một công ty rời đi nếu như chưa thử mọi cách và thuyết phục họ đồng ý quay lại đàm phán tiếp.
Thanh Danh