Nhảy đến nội dung
 

Quảng trường quốc gia

Trong dòng người chen chân chứng kiến lễ diễu binh mừng 80 năm Quốc khánh, có lẽ không phải ai cũng biết rõ ý nghĩa của không gian và kiến trúc trong khuôn hình cũng như từng hàng cây, ô cỏ, và các lớp đất lịch sử dưới chân mình.

Cuối thế kỷ XIX, sau khi phá Hoàng thành Thăng Long, người Pháp chọn mảnh đất trước cổng Vườn Bách Thảo phía cửa Tây thành để dựng trung tâm hành chính. Trên khoảng đất hoang vừa san lấp, họ xây vòng xoay và vườn hoa Rond-point Puginier (1894) - dân Hà Nội quen gọi "Quảng trường Tròn". Xung quanh, các tòa nhà thuộc địa mọc dần lên: Phủ Toàn quyền nằm trong khuôn viên Bách Thảo (nay là Phủ Chủ tịch), Sở Tài chính Đông Dương (nay là Bộ Ngoại giao), cùng nhiều dinh thự hành chính khác.

Mùa hè 1945, khi Nhật đảo chính Pháp, chính phủ thân Nhật bổ nhiệm thị trưởng Trần Văn Lai. Ông chủ trương "phi thực dân hóa không gian công cộng", đổi tên hàng loạt đường phố và vườn hoa. Vườn hoa Puginier trở thành Ba Đình, gợi nhớ cuộc khởi nghĩa cùng tên. Cũng trong năm ấy, khi cả nước ngóng chờ ngày độc lập, vòng xoay Ba Đình trở thành nơi dựng lễ đài lịch sử. Nơi này được chọn thay vì Quần Ngựa, Nhà hát Lớn hay Đông Dương học xá (nay là Đại học Bách khoa), bởi chỉ ở đây mới có không gian trống rộng đủ lớn để đón hàng vạn người.

Năm 1963, Hội trường Ba Đình mọc lên, đơn sơ nhưng đủ làm nơi họp Quốc hội. Sáu năm sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Trên chính nền đất ấy, Lăng Bác được xây và khánh thành năm 1975. Nhiều năm sau, quảng trường đón thêm các công trình mới: Bảo tàng Hồ Chí Minh (1990) và Tượng đài Bắc Sơn (1994). Đầu thế kỷ 21, Ba Đình bất ngờ có thêm hệ trầm tích di sản quan trọng: di chỉ Hoàng thành Thăng Long, được phát lộ năm 2002 và công nhận Di sản thế giới năm 2010. Năm năm sau, Nhà Quốc hội mới khánh thành trên nền hội trường cũ, trở thành biểu tượng chính trị mới.

Qua hơn một thế kỷ, Ba Đình không chỉ là trung tâm chính trị, mà còn như một "triển lãm ngoài trời" - nơi mỗi lớp gạch, thảm cỏ hay hàng cây đều kể câu chuyện lịch sử và kiến trúc của đất nước.

Lịch sử cũng để lại dấu ấn rõ nét trong quy hoạch không gian Ba Đình.

Năm 2002, khi tham gia một liên danh trong cuộc thi thiết kế Nhà Quốc hội, tôi có dịp nghiên cứu lịch sử và nghiền ngẫm quảng trường trên sa bàn.

Không gian này thừa hưởng quy hoạch mạch lạc của người Pháp, với các trục Đông-Tây, Bắc-Nam và cả trục chéo. Ngắm Paris trên Google Maps, dễ nhận ra những đường nét tương đồng. Trên bản đồ Hà Nội 1902 và nhất là 1925, vòng xoay Puginier hiện lên nổi bật: giao lộ giữa đường Paul Doumer (trục Đông-Tây, nay là các ô cỏ quảng trường) và đường Puginier chạy chéo (nay là Điện Biên Phủ).

Đầu năm 1973, khi xây Lăng Bác, các chuyên gia Liên Xô cũng chỉnh duyệt phương án quy hoạch Ba Đình từ một cuộc thi. Quảng trường rộng 320 m, dài 100 m, được chia thành những ô vuông 10 m mang đường nét Xô-viết. Thuở đầu, mặt ô đổ bê tông. Nhưng mùa hè hầm hập hơi nóng, có người ngất khi thao luyện, nên kiến trúc sư Việt Nam đề xuất phủ cỏ xanh mát như ngày nay. Số ô cỏ cũng thay đổi theo từng giai đoạn: ban đầu 168, sau mở rộng quảng trường lên 240. Khi mở đường Độc Lập để xây Nhà Quốc hội thì giảm xuống 210 ô như hiện tại, nhưng sắp tới sau chỉnh trang mở rộng, sẽ lên thành 238.

Trong quy hoạch quảng trường quyền lực, trục trung tâm - nghi lễ và biểu tượng - luôn là xương sống bố cục. Thiên An Môn (Bắc Kinh), Quảng trường Đỏ (Moskva), Place de la Concorde (Paris) hay National Mall (Washington, D.C.) đều dùng trục chính thẳng tắp để khẳng định quyền lực. Với Ba Đình, các bản đồ xưa cho thấy Hoàng thành đã có trục Đông-Tây rõ nét. Sau khi xây Lăng Bác và Đài tưởng niệm Bắc Sơn, trục này càng nổi bật. Lăng chốt phía Tây, kéo qua Cột cờ, vườn hồng tới Đài tưởng niệm. Nếu tưởng tượng nối dài trục xa hơn tới phố Cửa Đông, ta sẽ hình dung rõ nét trục chính của Ba Đình.

Nhà Quốc hội - biểu tượng quyền lực cao nhất của một quốc gia - thường được đặt đắc địa trên trục trung tâm (như Pháp, Mỹ, Brazil), hoặc đăng đối với một công trình khác qua trục (như Trung Quốc, Ấn Độ). Hội trường Ba Đình cũ thuộc trường hợp sau, nằm đăng đối với Sở Tài chính Đông Dương. Một số tư liệu hiếm kể thêm: đầu thập niên 1960, trước nhu cầu cấp bách cần hội trường cho Quốc hội và sự kiện chính trị, Hồ Chủ tịch chủ trương xây gấp một công trình tạm, giao KTS Nguyễn Cao Luyện thiết kế. Công trình được đặt trên khung đường cũ thời Pháp, nên hơi lệch trục.

Gần đây, việc mở rộng quảng trường thêm 7.190 m² với 28 ô cỏ bổ sung về phía Nam theo kế hoạch từ lâu, vừa kịp phục vụ Đại lễ A80, cũng cho thấy nan đề cân bằng phát triển và bảo tồn. Một số nhà cổ Pháp và cây cổ thụ phải nhường chỗ, nhưng đổi lại, không gian công cộng rộng hơn, đăng đối hơn qua trục chính, đồng thời kết nối tốt hơn với Bảo tàng Hồ Chí Minh, Chùa Một Cột và Nhà sàn phía sau Lăng.

Về mặt kiến trúc, không gian quảng trường hội tụ nhiều phong cách: truyền thống (Chùa Một Cột), thuộc địa (Phủ Chủ tịch), Đông Dương (Bộ Ngoại giao), Xô-viết (Lăng Bác), hiện đại mang sắc thái dân tộc (Bảo tàng Hồ Chí Minh, Tượng đài Bắc Sơn) và đương đại toàn cầu (Nhà Quốc hội). Cả quần thể như một cuốn biên niên sử viết bằng gạch đá, đường nét và khoảng không gian.

Quan sát kỹ có thể thấy những nỗ lực tạo phong cách kiến trúc mới: hiện đại kết hợp nét dân tộc (Tượng đài Bắc Sơn, Bảo tàng Hồ Chí Minh), hay địa phương hóa để thích ứng khí hậu (trụ sở Bộ Ngoại giao, Lăng Bác). Điều đáng tiếc là quảng trường vẫn thiếu một kiến trúc hay điêu khắc nhỏ gợi nhắc lễ đài 1945 - ký ức thiêng liêng ngày khai sinh đất nước.

Ngoài ba chiều không gian và chiều thời gian, trong đô thị học còn một chiều thứ năm - thú vị và giàu ý nghĩa xã hội: bầu không khí và cái hồn của nơi chốn (genius loci).

Cùng một không gian và thời điểm, sự hiện diện hay vắng mặt của con người, hòa cùng ánh sáng, âm thanh và thời tiết, tạo nên trải nghiệm khác nhau. Khi lặp đi lặp lại, chúng kết tinh thành "chốn ký ức" (lieux de mémoire), nuôi dưỡng cảm giác gắn bó, khiến người đi xa vẫn khắc khoải nhớ về: nhịp dưỡng sinh lặng lẽ sớm thu Bờ Hồ, trống Trung thu rộn ràng Hàng Mã, hay nhộn nhịp 30 Tết chợ hoa Hàng Lược. Đó là điều mà những "không gian vô hồn" (non-place) như cao tốc hay kho bãi không thể mang lại - ở đó, ta chỉ lướt qua, vô thức và vô cảm.

Ba Đình là một chốn ký ức đặc biệt, từng lưu giữ không khí thiêng liêng ngày 2/9/1945, nỗi đau quốc tang 1969, niềm vui thống nhất trong lễ diễu binh đầu tiên 1975, và những đại lễ sau này. Bên cạnh các dấu mốc lịch sử, đời thường vẫn dung dị tiếp diễn: người già tập thể dục, vợ chồng trẻ dắt con hóng xem đổi gác, dòng người viếng Lăng, chị hàng hoa đạp xe vào phố, nhóm du khách tản bộ. Lễ thượng cờ và hạ cờ trang nghiêm mỗi ngày trở thành gạch nối - vừa nghi thức, vừa nhịp sống. Vì thế, Ba Đình hiện ra như một không gian công cuộc đặc biệt của Hà Nội: vừa quảng trường nghi lễ quốc gia, vừa nơi sinh hoạt cộng đồng gần gũi.

Trong đại lễ, nơi đây biến thành "sân khấu tập thể": hàng vạn con người trong sắc đỏ sao vàng cùng hát vang quốc ca. Những khoảnh khắc ấy là "cao trào tập thể", chất keo mà các nhà xã hội học chứng minh có khả năng "nối vòng tay lớn" cả dân tộc, và cần những dịp đặc biệt để kích hoạt.

Hai sự kiện trọng đại năm nay - 30/4 tại TP HCM và 2/9 ở Hà Nội - phản ánh hai sắc thái bổ sung cho nhau. Đại lễ 30/4 mang thông điệp hòa bình và hòa giải dân tộc, yếu tố khí tài chỉ điểm xuyết, nhường chỗ cho khối diễu hành đa dạng giữa dân sự và quân đội. Đại lễ 2/9 nhấn mạnh sức mạnh tự cường trong thế giới đầy biến động, với vũ khí hiện đại toát lên hào khí quốc gia. Cả hai hòa chung một quỹ đạo: lòng yêu nước, tự hào dân tộc và tinh thần đại đoàn kết.

Ngắm quảng trường Ba Đình, người già thấy ký ức, người trẻ thấy niềm tin, người đi xa mang theo nỗi nhớ. Dù khác thế hệ, tất cả gặp nhau ở quảng trường quốc gia - nơi ký ức, niềm tin và lòng tự hào giao thoa. Chính sự cộng hưởng ấy khiến Ba Đình không chỉ là không gian đô thị đặc biệt, mà là một phần máu thịt trong tâm thức và tình cảm mỗi người Việt.

Tô Kiên

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: daisanjsc@gmail.com

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn