Nhảy đến nội dung
 

Liệt sĩ không danh phận

Một ngày cuối tháng 8, tôi nhận được điện thoại của ông Phơ và ông Nuôi - đều gần 80 tuổi - báo tin người thân của các ông đã được công nhận là liệt sĩ. Hai gia đình rất phấn khởi, rưng rưng trong niềm vui chung của đất nước.

Cách đây 74 năm, ngày 3/9/1951, 5 du kích của xã Ninh Hải, Ninh Giang, Hải Dương bị thực dân Pháp tra tấn rồi sát hại trước sự chứng kiến của nhân dân. Sự việc đã được lịch sử đảng bộ xã ghi nhận, nhân dân đã lập bia căm thù. Nhưng chỉ vì sai tên họ mà chú ruột của ông Phơ và bố của ông Nuôi mãi không được công nhận liệt sĩ, dù hai gia đình đã làm đơn đề nghị từ năm 1996.

Trường hợp của hai liệt sĩ khiến tôi đau đáu vì các cụ hy sinh ngay trên chính quê hương mình, nhưng người thân đã phải ròng rã đơn từ, chờ đợi gần 30 năm. Trong khi việc sử dụng bí danh hay khai họ tên khác để hoạt động bí mật, tránh liên lụy đến gia đình là chuyện rất bình thường.

Ngày 27/7 hay dịp lễ tết hàng năm, ông Phơ và ông Nuôi lại dắt con cháu ra nghĩa trang làng thắp hương cho các cụ. Họ nhìn về nghĩa trang liệt sĩ mà bùi ngùi cho người thân đã xanh cỏ nhưng chưa đỏ ngực. Hai ông "di chúc" ủy thác cho con cháu: khi các ông chết, con cháu vẫn phải tiếp tục đi tìm danh dự cho các cụ.

"Muộn còn hơn không", ông Phơ và ông Nuôi chia sẻ với tôi, cuối cùng, các cụ đã được đất nước ghi công.

Đảng, Nhà nước và nhân dân vốn rất quan tâm đến việc đền ơn, đáp nghĩa người có công. Hàng triệu thương binh, liệt sĩ, thanh niên xung phong và nạn nhân chất độc da cam đã được công nhận, được thụ hưởng chế độ và chính sách đãi ngộ. Nhưng vẫn cần thiết phải đổi mới tư duy xây dựng pháp luật cho phù hợp với thực tiễn, để giải quyết thỏa đáng hơn cho những trường hợp như gia đình ông Phơ, ông Nuôi. Có gia đình khắc khoải chờ đợi. Nhưng cũng có gia đình buông xuôi vì quá mệt mỏi với các thủ tục hành chính.

Trường hợp của liệt sĩ Hà Văn Thàm ở Mai Long, Cao Bằng là một ví dụ. Năm 1968, ông Thàm nhập ngũ và đến nay không trở về. Gia đình ông được Chính phủ tặng "Bảng gia đình vẻ vang".

Theo quy định, ông được công nhận là liệt sĩ theo diện quân nhân mất tích. Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi được đồng đội cũ của ông cho biết ông Thàm chính là liệt sĩ Hà Văn Kiên hiện nằm ở Nghĩa trang Liệt sĩ Dương Minh Châu, Tây Ninh. Nhưng khi liên hệ để làm thủ tục xác nhận danh tính thông qua việc xét nghiệm ADN của liệt sĩ Kiên và con gái ông Thàm, thì chúng tôi - những người đang làm công tác pháp luật - cũng phải thở dài vì thủ tục quá nhiêu khê. Vậy, con gái ông Thàm - một phụ nữ dân tộc thiểu số 60 tuổi ở vùng biên của Tổ quốc - có thể làm được gì cho cha của mình?

Hai "liệt sĩ" Kiều Tùng Cương, Kiều Trí Trức quê ở tỉnh Vĩnh Phú cũ cũng là những trường hợp rất đáng băn khoăn. Phần mộ của hai ông hiện nằm ở nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Đồng Nai. Song, ở quê hương, các ông chưa được công nhận là liệt sĩ. Gia đình chia sẻ, bao năm qua họ đã nhiều lần đi làm thủ tục nhưng không có kết quả. Gia đình muốn đưa hài cốt của hai ông về với đất mẹ nhưng nếu thế thì buộc phải để các ông nằm ở nghĩa trang nhân dân, nên phía gia đình phân vân không quyết định được.

Lý do ông Cương và ông Thức chưa được công nhận liệt sĩ vì giấy báo tử xác định hai ông là "quân nhân từ trần" do tai nạn rủi ro. Xót xa hơn khi ông Cương mất đúng vào ngày 30/4/1975, khi mới 21 tuổi. Ngày nhận giấy báo tử của con, mẹ ông khóc ngất. Bà kiên quyết không nhận chế độ "tử sĩ" vì con bà cùng bạn bè vào Nam chiến đấu theo tiếng gọi của Tổ quốc. Vậy mà bạn bè, đồng đội của con được công nhận là liệt sĩ, còn con bà thì không.

Quá trình tiếp cận hồ sơ các liệt sĩ chưa được công nhận, tôi nhận thấy nên đổi mới tư duy, theo hướng:

Thứ nhất, cần lập danh sách quân nhân phản bội, đầu hàng, chiêu hồi, đào ngũ hay tự sát trong chiến tranh để đối soát. Từ đó, những trường hợp mất tích hay thiếu sót về giấy tờ như ông Thàm, mà không rơi vào danh sách này, sẽ được chủ động công nhận là liệt sĩ. Thân nhân của họ không phải đi gõ cửa từng cơ quan, đơn vị để hoàn thiện hồ sơ, thủ tục như hiện nay.

Thứ hai, xem xét mở rộng đối tượng được công nhận liệt sĩ. Không nên chỉ dựa vào việc ông Cương, ông Thức chết như thế nào để rồi hoãn ghi nhận công lao của họ. Những người như các ông đã cống hiến, đã cùng đồng đội vào sinh ra tử và góp phần làm nên chiến công. Bom đạn không có mắt, chết do tai nạn là điều không mong muốn. Hơn nữa còn phải xét đến chí nguyện, tinh thần bất khuất vì nước, vì dân của những người đã ngã xuống cùng những mất mát, đau thương từ phía gia đình họ. Những quân nhân đã tử nạn trong chiến tranh chống đế quốc Mỹ, chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, mà không vi phạm kỷ luật quân đội, cũng xứng đáng được xem xét công nhận liệt sĩ như đồng đội đã hy sinh vì bom đạn.

Thứ ba là bãi bỏ các quy phạm pháp luật xung đột, không thấu đáo. Điều 71, Nghị định 131 quy định: Không xem xét công nhận thương binh, liệt sĩ đối với những trường hợp bị thương, chết từ ngày 31/12/1994 trở về trước đã được cơ quan có thẩm quyền kết luận không đủ điều kiện xác nhận liệt sĩ, thương binh. Có những hồ sơ thương binh, liệt sĩ đang bị nghẽn lại vì quy định oái oăm này.

Ngày 24/12/1972, khi đang giải tỏa hàng hóa chi viện cho chiến trường tại Ga Lưu Xá, Thái Nguyên, 60 thanh niên xung phong đã hy sinh do bị máy bay Mỹ ném bom, và được công nhận là liệt sĩ. Nhưng 98 thanh niên xung phong tử nạn trên công trường cống thủy lợi Hiệp Hòa, Nghệ An năm 1978 không được như vậy. Cùng thực hiện nhiệm nhà nước giao phó, cùng góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cùng nằm xuống ở lứa tuổi mười tám - đôi mươi nhưng chết vì bom đạn thì được công nhận liệt sĩ còn chết vì tai nạn thì không? Trong khi hiện nay, Pháp lệnh ưu đãi người có công còn mở rộng phạm vi công nhận liệt sĩ ra đối với cả người dân dũng cảm cứu người, cứu tài sản hoặc ngăn chặn, bắt giữ tội phạm.

Làm chính sách cho những người đã hiến dâng xương máu để đất nước có ngày hôm nay chưa bao giờ là việc dễ dàng. Nhưng nếu chúng ta có cái nhìn toàn diện, nhân văn và phù hợp với thực tiễn, thì những người xứng đáng sẽ được tôn vinh đúng với sự hy sinh của họ, còn thân nhân sẽ trọn niềm an ủi, muộn còn hơn không.

Bùi Võ

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: daisanjsc@gmail.com

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn