Đê điều là hình thức bảo vệ đầu tiên mà tổ tiên ta đã nghĩ đến để phòng chống thiên tai bão lụt. Trải qua hàng nghìn năm, các triều đại phong kiến nước ta đã liên tục củng cố hệ thống đê điều và đặt ra các biện pháp quản lý.
|   | 
| Việc đắp đê và phòng chống bão lụt của người xưa. | 
Tuy chưa có những tài liệu chính xác, nhưng chuyện thần thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh được truyền tụng đến nay cho thấy thời Thục Phán An Dương Vương cũng đã nói đến chống lụt: Sơn Tinh là nhân dân chống lụt, Thủy Tinh là lũ lụt.
Đê chống lụt ở nước ta có từ khi nào?
Hình thức bảo vệ đầu tiên mà tổ tiên ta đã nghĩ đến để phòng chống thiên tai bão lụt chính là đê điều. Theo Hậu Hán thư, ngay từ năm thứ III trước công nguyên, ở huyện Phong Khê, quận Giao Chỉ, đã có đắp đê; phía tây bắc huyện Long Biên của quận Giao Chỉ đã có đê sông.
|   | 
| Bìa sách Đại Việt Sử ký tiền biên (trái) và Đại Nam thực lục tập 1 có ghi chuyện đắp đê chống lũ lụt của người Việt xưa. | 
Từ khi lũ lụt được ghi vào quốc sử thì cũng xuất hiện những thông tin về công cuộc đắp đê, chống lũ lụt của dân tộc Việt Nam. Đại Việt Sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ cho biết đê Cơ Xá là con đê đầu tiên được vua Lý Nhân Tông (1072-1127) cho xây dựng vào tháng 3 năm Mậu Tý (1108) để bảo vệ kinh thành Thăng Long khỏi ngập lụt.
Đến thời Trần Thái Tông, tháng 3 năm Mậu Thân (1248), vua Trần Thái Tông sai quan ở các lộ đắp đê ở hai bên bờ sông Hồng từ đầu nguồn tới biển, gọi là Đê Quai Vạc.
Đê Hồng Đức được đắp trong khoảng thời gian từ năm 1472 đến năm 1474, dưới thời vua Lê Thánh Tông. Đây là công trình đê biển chống nước mặn đầu tiên của Việt Nam, được xây dựng để ngăn nước biển xâm nhập vào vùng ven biển trấn Sơn Nam.
Dưới triều Lê sơ (1428-1527) những con đê lớn hơn được đắp mới, và tân tạo hệ thống đê cũ trên hai bờ sông Nhị Hà bằng đá vững chắc.
Thời Nguyễn, ngay khi vừa mới lên ngôi vua Gia Long đã lo đến việc tu bổ các đê cũ và đắp thêm các đê mới. Theo Đại Nam thực lục, năm Gia Long thứ 2 (1803), vua cho đắp đê Nhị Hà và 7 đoạn khác ở Bắc Bộ. Năm Gia Long thứ 8 (1809), vua cho đắp đê ở Sơn Nam (vùng Kim Động và Gia Lâm) hết khoảng 87.000 quan tiền.
Đến thời Minh Mạng nhờ quan tâm việc đê điều, nên hệ thống đê tại miền Bắc ngày càng phát triển. Năm 1833, chiều dài hệ thống đê đo được 333.616 trượng (khoảng 1.300 km, so với năm 1809 là 906 km).
Theo ước tính trong bài viết Con đê xưa và nay trên báo Tiền Phong, số 2673, ra ngày 5/6/1979: Từ thời phong kiến đến Pháp thuộc (1884) khối lượng đê được đắp ở miền Bắc là khoảng 20 triệu mét khối đất. So với thời thời Pháp (1885–1953) là gần 100 triệu mét khối đất, và từ năm (1954-1978), 200 triệu mét khối đất.
Bên cạnh việc xây dựng hệ thống đê điều, các triều đại cũng đặt ra các chức quan quản lý viêc đê điều, đặt ra thể lệ khám đê điều và ứng phó với mưa bão, vỡ đê, ngập lụt.
Thời Trần Thái Tông, vua đặt quan để coi việc đê, gọi là Hà Đê chánh phó sứ hai viên. Sang thời Lê Thánh Tông, vua lại đặt ra quan “Hà Đê” để lo đê điều và quan Khuyến Nông để phát triển nông nghiệp.
Dưới thời Lê Trung Hưng, năm 1664, đã quy định lệnh đắp đê vào tháng 10 âm lịch (tức là đắp đê ngay sau mùa lũ lụt). Trước khi đắp, phải cho người đi khám xét: chỗ nhỏ thì giao cho dân sở tại, chỗ lớn thì giao cho các quan ở triều đình lo.
Năm 1767, có thể lệ khám đê rõ ràng: Đối với đê đắp và cửa cống ở các lộ (đường), hàng năm cứ đến tháng 8 âm lịch, các quan huyện phải làm việc sơ khám, rồi báo cáo lên thừa ty. Đến tháng 9 âm lịch, thừa ty ở trấn đi khám lại rồi báo lên chính đường. Đến tháng 11 âm lịch, chính đường lại đi khám lại.
Dưới thời phong kiến, phá hủy hay làm hư hại đê bị là một trọng tội. Năm nào có thiên tai, lũ lụt nặng, chính nhà vua lập đàn chay tạ tội, nhận trách nhiệm cùng trời đất.
|   | 
| Người xưa nạo vét, đào sông, khơi dòng tiêu thoát nước. | 
Thêm biện pháp nạo vét, đào sông, khơi dòng nhằm tiêu thoát lũ
Bên cạnh đắp đê, cha ông ta cũng tiến hành nạo vét và đào sông để phát triển nông nghiệp và tiêu thoát nước lũ.
Năm 1390, nhà Trần cho khơi vét sông Thiên Đức (sông Đuống) nhằm giảm bớt lượng nước sông Nhị Hà (sông Hồng). Cũng con sông này, năm Minh Mệnh thứ 11 (1830), Tổng trấn Phan Văn Thúy phụng chỉ xin phái Thống quản Trung quân Lê Văn Quý đốc 1.000 người biền binh thuộc thành tiến hành vét cửa sông Thiên Đức, làm hơn một tháng thì xong.
Năm 1728, triều đình sai các quan Hà Đạo ở các xứ hỗn thái dương công, thấy sông ngòi bị nghẽn lấp mà xét ra có thể nạo vét được thì trình lên triều để xét.
Năm 1729, sau trận lụt tháng 7 âm lịch, vỡ đê sông Hồng, triều đình cho vét sông Nghĩa Trụ (Gia Lâm hiện nay) để cho dòng nước được thông thoát.
Vào năm 1835, vua Minh Mạng đã cho đào thêm và tu bổ sông Cửu An (vốn là một phân lưu của sông Hồng) nhằm mục đích chính là thoát nước sông Cái, giúp nông dân có thể làm sớm vụ lúa mùa. Đây là một phần trong nỗ lực cải thiện thủy lợi và phát triển nông nghiệp của triều đình nhà Nguyễn dưới thời vua Minh Mạng.
Dù dốc sức đắp đê, đào khơi sông ngòi, tuy nhiên, tình hình lũ lụt vẫn xảy ra thường xuyên. Cuối thế kỷ 18, do chiến tranh loạn lạc, đê điều không được bảo vệ, chăm, nạn vỡ đê vì thế ngày càng trở nên trầm trọng.
Dưới thời Nguyễn, từ năm 1803 đến năm 1857, Bắc Kỳ xảy ra 26 đợt lũ, lụt, vỡ đê. Năm 1852, vua Tự Đức mở cuộc trưng cầu ý kiến về việc phòng đê ở Bắc Kỳ, các ý kiến chia thành 2 phái: Giữ đê và bỏ đê.
Đến năm 1872, các tỉnh Bắc Kỳ đều điều trần về việc đê điều nhưng vẫn tiếp tục có ý kiến khác nhau. Những bài điều trần này đã được đóng thành từng tập dày như Đê chính tập hay Đê chính tân luận. Song vì sở kiến bất đồng kéo dài nên triều đình vẫn phải giữ đê mà đê vẫn tiếp tục vỡ.
Dẫu vậy, đê điều vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn lũ lụt, bảo vệ đồng bằng và các khu vực dân cư khỏi tác động của nước dâng cao vào mùa mưa bão, dù chúng phải luôn đối mặt với thách thức lớn khi lũ trên các sông có mức nước rất cao.
Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức - Znews
Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức - Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: books@znews.vn. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.
Trân trọng.
 
        
     














 
 
 
 
 
 
 
 

 Điện thoại: 1900 98 98 36
  Điện thoại: 1900 98 98 36 Fax: 045625169
  Fax: 045625169 Email: info@daisan.vn
  Email: info@daisan.vn