Nhảy đến nội dung
 

Bắt trộm - Truyện ngắn dự thi của Phước Nguyễn

'Tối nay mầy bắt trộm với tao!' - ông Ba đưa củ mì có dấu dao chặt bén ngót cho tôi xem, rồi xua mấy con dê ra khỏi đám mì cây ngã ngổn ngang.

Thời gian ấy, cả nước thiếu gạo phải ăn bo bo, khoai, bắp độn cơm. Niềm vui hòa bình thống nhất chưa được bao lâu thì lại xảy ra chiến tranh ở hai đầu biên giới đất nước.

Vùng mới khai hoang thuộc miền Đông Nam bộ này làm chơi mà ăn thiệt. Đất tốt đến nỗi bắp trồng một lỗ ba cây vẫn ăn được cả sáu trái. Ban ngày nai hoẵng kêu túc tác, ban đêm heo rừng kéo nhau đi từng đàn. Mới đầu ai cũng tưởng với quyết tâm khắc phục khó khăn, biến rẫy thành vườn, biến chuồng thành trại thì sẽ có cuộc sống tốt đẹp. Nhưng khi bắt tay vào việc thì người ta mới phát hiện: rất nhiều hầm chứa vũ khí, quân trang quân dụng thời chiến tranh còn sót lại. Và điều đáng sợ nhất lại thường hay xảy ra. Đó là cuốc nhầm thứ gì đó chưa nổ. 

Hòa bình rồi mà "ác thần chiến tranh" chưa chịu bỏ đi, vẫn còn nằm chực chờ đâu đó gây thương vong cho người xấu số. Sau khi bộ đội công binh rà phá bom mìn xong, trả lại cuộc sống xanh cho đất, thì lại xảy ra nạn khan hiếm thóc gạo. Khiến ước mơ đổi đời có nguy cơ phá sản.

Lần đầu tiên trong đời, tôi mới biết không có chất bột đường trong người thì cơ thể rũ rượi thiếu sức sống như thế nào. Gạo không có đã đành, đến khoai lang, khoai mì cũng phải săm soi từng củ trên giồng. Khoai còn non thì cả xóm rủ nhau đi tìm mua. Có lúc phải dở khóc dở cười ăn vỏ khoai mì bào sợi, xào với thịt thú rừng. Tôi nhớ suốt đời chuyện giúp hai cô gái đẹp nhổ mì trong đám cỏ tranh dưới trời nắng gắt. "Mi là người thành phố thì tau mới bán, chớ mấy o kia dân rẫy mà không biết trồng khoai thủ đói, thì đưa vàng tau cũng không thèm lấy", nói xong ông trưởng ấp đành đoạn tịch thu hết số mì hiếm hoi chưa kịp cân. Đuổi như đuổi tà cả ba đi chỗ khác. Cho nên dù muốn dù không, năm nào tôi cũng phải trồng một đám mì quanh nhà.

Mặc dù đã trải qua hai cuộc kháng chiến, nhưng ông Ba vẫn từ chối về thành phố hưởng chế độ "người có công". Ông ở lại làm Trưởng ban Nông hội. Tuy già nhưng ông vẫn vào rừng, leo bụi tre gai, cây nào cây nấy to bằng bắp chân, đốn bôm bốp cả ngày. Trai tráng xúm nhau kéo về dựng nhà, dựng trường học. Tánh hào phóng của ông thì khỏi nói. Ai mượn gì đưa nấy. Hỏi xin thì cho luôn. Như có lần tôi ghé nhà muốn tìm sợi dây kẽm buộc lại cáng xe thồ bị gẫy. Ông lấy ra cả nùi: "Về gỡ ra mà xài".

Nhà ông là cái kho chứa phế liệu chiến tranh. Từ bình tông đựng nước, dù trái sáng, cái bếp dầu cũ bằng vỏ đạn pháo, cho tới xích xe tăng làm đe gõ búa… Thậm chí mảnh bom B52 cũng được trưng dụng làm kẻng báo bà con họp tổ. Cũng là dụng cụ trợ lực, ông có thể dùng pa lăng nâng cả thùng phi nước lên miệng giếng công cộng cho bà con tha hồ xài, nhưng đừng hòng tìm thấy cái bánh xe ròng rọc nào hết. Bởi nó gợi lại nỗi ám ảnh bị mật thám tra tấn bằng cách giã chày, vì dám cả gan tổ chức đánh cướp chiếc tàu chở vũ khí của Pháp. Chúng cứ cho chày kéo lên kéo xuống cái ròng rọc, dộng bình bình đến lún cả ngực, khiến ông chết đi sống lại mấy lần.

Đến thời chống Mỹ, bị liên quân Úc - Tân Tây Lan (tên gọi cũ người Việt hay dùng chỉ New Zealand) vây ráp trên núi Mây Tào, đội du kích của ông phải ăn rau tàu bay, củ mài, củ chụp cầm cự qua ngày để bảo vệ căn cứ kháng chiến.

Có người nói vui rằng: "Ổng không sợ thằng Tây nào hết, chỉ ngán mấy thằng ăn trộm".

Trong xã có Nhàn "đầu trọc". Buồn đời vì bị vợ bỏ nên thường hay lảm nhảm ca cẩm với mấy chai rượu đế. Mỗi lần có nhà nào bị mất trộm là ai cũng nghĩ tới gã. Không nghi sao được: bê tha suốt ngày thì lấy tiền đâu mà nuôi mẹ già cùng với mấy đứa con dại.

Còn một "ma trù" nữa. Đó là Lợi "máy cày". Hắn nổi tiếng không phải vì lái xe đỏ trong câu châm biếm "trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà", mà là có lần nhậu xong, hắn nổi hứng xách mỏ lết tháo bánh máy cày của người ta đem giấu.

Đêm đó, tôi và ông Ba nằm bên nhau dưới hầm bí mật đào sẵn. Từ vị trí này có thể quan sát toàn bộ khu vực rẫy mì dưới dốc bằng ống nhòm nhìn ban đêm (chiến lợi phẩm ông Ba tịch thu trong một trận công đồn). Nó và những huân huy chương, giấy tờ tùy thân, giấy trao trả tù binh được ông cất kỹ trong cái thùng đạn đại liên, chôn dưới cái giường tre lâu ngày lên nước nâu bóng. Ai cũng thắc mắc tại sao hòa bình rồi mà ông cứ đào hầm lung tung trong vườn để làm gì? Ông nheo mắt cười, nói: "Đề phòng hay hơn hết!". Tới hồi người ta đốt rẫy lan qua vườn nhà ông. Cháy tan hoang, chỉ còn trơ đống tro tàn nghi ngút khói. Ông vẫn cười khề khà. "Nhà cháy thì cất lại cái khác, chớ 'công trận' mà mất thì còn gì để lại cho con cháu".

Trăng đã lên cao rồi mà chưa thấy động tĩnh gì. Tiếng muỗi vo ve không cản nổi cơn buồn ngủ. Tôi với lấy cái poncho (một kiểu áo tơi) trùm lên người, xoay đầu nằm nghiêng.

"Dậy! Nó tới rồi!", tiếng thì thào của ông làm tôi ngồi bật dậy cùng với cây đèn pin.

Trong khung hình ống nhòm. Một bóng trắng thụp lên thụp xuống, len lỏi trong đám mì. Rồi xuất hiện thêm một cái nón lá nhấp nhô theo sau. Ngực tôi đánh thình thịch vì lần đầu đi bắt trộm. Đưa tay quờ quạng qua bên cạnh. Không thấy ông Ba đâu hết. Có lẽ kỹ năng lính đặc công đã giúp ông nhanh chóng tiếp cận đối tượng rồi cũng nên. Ông từng nói có thể chạy bộ từ Vũng Tàu về Sài Gòn chỉ trong vòng một buổi mà chưa ai dám tin. Đặc biệt là chân ông không bao giờ mang dép. Dù băng rừng, vượt suối hay có đi đến đâu thì chó cũng không dám sủa. Người ta đồn ông có mang trong người da cọp.

Tên trộm sững cả người khi bị ông Ba Râu rọi thẳng đèn pin vào mặt. Còn tôi cố hết sức hét lên: "Ăn trộm! Ăn trộm!"… Túm lấy áo của người đội nón lá. Bất ngờ tôi nghe tiếng khóc của con nít ré lên. Qua ánh đèn pin, tôi mới biết đó là người phụ nữ đang ngồi cho con bú.

Kẻ trộm không ai khác là phụ huynh của lớp tôi phụ trách. Mấy bữa trước có đứa học trò trong giờ ra chơi bỗng nhiên ngã lăn ra ngất xỉu. Mặt mũi tái mét, miệng thở thoi thóp như cá mắc cạn. Tình trạng giống hệt như anh chàng ham chơi trong xóm, vì toàn ăn múi mít với hột mít luộc nên anh ta cứ xỉu lên xỉu xuống trước cửa nhà. Khi tôi bấm huyệt nhân trung thì tỉnh lại, nói thều thào: "Cho tui xin chén cơm!". Đứa học trò cũng vậy. Hỏi có muốn ăn gì không thì nó ngượng ngùng nói: "Cho em bịch bánh!". Nghe vậy, mấy đứa bạn trong lớp chạy ùa ra cổng tìm mua đồ ăn hàng rong cho nó. Tan học chở nó về nhà. Ba má nó tỏ vẻ lúng túng, vì không biết mời tôi ngồi chỗ nào trong căn nhà không có bàn ghế, chỉ có cái bếp lò ám khói.

Biết hoàn cảnh khó khăn khi mới di dân vào Nam, nên ông Ba kêu tôi phụ giúp nhổ thêm mì cho họ. Phần ông gom cây mì, cột thành bó gọn gàng như người ta thường làm sau khi thu hoạch. Trước khi trời sáng, ông dặn dò hai vợ chồng đem mấy bao mì về xay bột làm bánh bán. "Đừng dại dột đi ăn cắp mà mang tiếng cả đời", ông thở dài nói.

Trong lớp 5 tôi dạy có đứa học trò tên Thúy. Bạn bè phải kêu bằng chị vì đã 15 tuổi rồi. Gia đình khó khăn phải học lớp bổ túc vào ban đêm, sau đó được đặc cách vào trường phổ thông. Có người đùa rằng nên phong cho em làm Phó chủ nhiệm. Mặc dù bị chế nhạo là lớn tồng ngồng rồi mà còn học cấp I, Thúy vẫn dẹp bỏ tự ái, cố gắng học tiến bộ hằng ngày. Thi tốt nghiệp xong là em xin chuyển trường. Lý do có lẽ chỉ tôi mới biết. Hôm ấy, tôi đang giảng bài thì một học trò đứng lên báo là bị mất cây viết máy Pilot mới mua. Hồi đó gia đình có tiền lắm mới mua cho con em mình xài loại viết này. Nhiều tiếng nhao nhao lên đòi xét cặp như các lớp khác. Có đứa xung phong trút sách vở, đồ dùng học tập ra bàn để chứng tỏ mình vô can.

Đây là lần đầu tiên tôi phải xử lý tình huống lộn xộn này.

Chợt nhớ tới câu nói của ông Ba: "Con người ta thì không ai mà không có lúc dại dột làm bậy. Hay dở là mình đối xử sao cho họ không bị mất mặt rồi trở chứng làm càn". Chính câu này đã khiến cho tôi dằn cơn giận, đến nhà mời thằng bạn hàng xóm ra ngoài sau hè, nhẹ nhàng kêu nó trả lại số tiền đã mất. Tôi không muốn nó bị bẽ mặt với vợ con.

Kêu tất cả học trò ra khỏi lớp. Tự tay xem xét cặp vở của từng em. Đến chỗ ngồi của Thúy, thấy cây viết nằm trong kẹt phía trong hộc bàn. Tôi giả bộ lom khom tìm kiếm rồi nhanh tay đút cây viết vào túi quần. Cho học trò trở về chỗ ngồi, tôi lên văn phòng uống nước. Thúy nhìn tôi đến tái cả mặt. Trở về, tôi thông báo với cả lớp là có một học sinh đã lượm được cây viết rồi gởi lên văn phòng trả lại bạn nào đánh rơi. Không phải cố tình bao che, mà tôi không muốn chỉ vì sai lầm không đáng có mà chấm dứt chuyện học hành của em.

Trước Tết Nguyên đán, tôi đang ngồi đọc báo xuân thì nghe tiếng gọi: "Thầy ơi!". Ngẩng lên nhìn thì thấy một thanh niên cao ráo, chân mày rậm, râu quai nón, trông thật điển trai. Ngỡ là phụ huynh đến thăm, tôi rót trà mời, thì nghe hỏi bằng giọng Huế nhẹ nhàng: "Răng thầy không nhớ em hì?". Tôi cười xuề xòa, nói thầm: "Nhiều quá không làm sao nhớ hết!". Thấy tôi cứ nhìn rồi lắc đầu, anh ta nắm lấy tay tôi, giọng rưng rưng: "Đạo, học trò của thầy đây". Thì ra là cậu học trò ngất xỉu vì đói trong giờ ra chơi năm nào. Đạo cho biết em là một kỹ sư xây dựng đang làm việc tại một gói thầu công trình trong cảng Cái Mép. Nhờ có bạn học cùng lớp cho biết địa chỉ thầy nên vội vàng ghé thăm. Hãnh diện chia sẻ cho tôi tấm hình cả lớp chụp chung nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20.11 mà đến giờ em còn cất giữ.

Khi hỏi thăm thì mới biết ba em đã mất vì căn bệnh ung thư. Trước lúc mất, ông luôn trăn trở là chưa có dịp trở về thăm lại vùng kinh tế mới, nơi mà nếu không có những người nhân ái như ông Ba thì gia đình ông đâu có được như ngày hôm nay.

Nhìn kỹ thì Đạo rất giống anh Xuân. Anh Xuân tướng mạo nghệ sĩ. Những ngón tay thuôn dài thích hợp để chơi guitar classic. Nghe anh đánh bài Romance thì ai cũng phải mê mẩn. Tôi còn nhớ ngày anh đến chào từ biệt để đưa cả gia đình trở về Huế. Bổn phận làm con phải phụng dưỡng người mẹ già mà anh kể: có thể một mình quật ngã một con bò để xả thịt lậu. Chính vì sợ cái nghề dễ gây hại sức khỏe cho người khác, khuyên can mãi không được, anh đành đưa cả vợ con vào Nam lập nghiệp. Anh nói sẽ mang theo những cái khuôn của ông Ba cho, để tiếp tục làm bánh "hỏa châu" - loại bánh thịnh hành ở miền Nam lúc bấy giờ. Được làm bằng bột mì hòa với nước lá dứa, thoa mỡ rồi đổ vào khuôn làm từ đuôi trái sáng. Nướng lên bay mùi thơm phức.

Tôi cắt sửa tàn cho cây mai mà ông Ba tặng. Năm nào nó cũng trổ hoa thật đẹp. Ông thường nói cái thú chơi mai là làm sao cho nó trổ bông đúng tết. Dù năm thường hay năm nhuận, thời tiết ôn hòa hay thất thường, người chơi phải lắm công phu cắt tỉa dọn cành cho cây luôn có dáng đẹp. Tiếc là từ lâu rồi, ông không còn, để cùng tôi ngắm những bông hoa vàng nở rộ trong ánh nắng mùa xuân rực rỡ.

 

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: daisanjsc@gmail.com

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn