Nhảy đến nội dung
 

Chuyến tàu Trường Sa - Truyện ngắn dự thi của Mạnh Hoài Nam

Tàu chở đoàn công tác cơ quan báo chí ra thăm chúc tết Trường Sa. Lênh đênh trên biển một đêm rồi gần hết một ngày, Linh say sóng nằm vùi đầu trên giường. Chiều, biển hơi lặng sóng, có người phòng bên đến nói, ra trước nhìn bao la, nằm miết chìm trong phòng.

Linh ra trước mũi tàu nhìn cơn sóng đội đầu chạy dài, hiểu sâu xa hơn, câu "nghìn trùng sóng vỗ".

Về phòng, có người ngồi trên giường, Linh đứng đợi "đòi giường".

Chạy thêm một đêm nữa, tàu chở "tết nhà đến đảo xa".

Đoàn công tác đến thăm nhà dân trên đảo, tặng chậu quất đặt trước bàn thờ Tổ quốc, đứa nhỏ "chạy, bước chạy mới tập chạy" hái trái quất đến đưa cho mẹ. Coi lại trái quất bị "lở miệng" (rách vỏ chỗ cuống), người mẹ tiếc, nói: "Còn cuống thì đơm cổ bồng trên" (*).

Người dân trên đảo nâng niu chậu quất từ chiếc lá sắp rụng.

Đến nhà bên kia hàng rào, thấy đang nấu nướng, cúng. Đứa con gái phụ mẹ bưng các món từ bếp lên cho ông bố sắp đặt trên bàn gia tiên. Nhìn trên bàn, tô canh bí, chả lụa sắp trong đĩa, bàn to, còn "thiếu" chỗ trống, ông bố nói, "gắp thêm đĩa xào", "rót chén nước mắm".

Tàu tiếp tục hải trình đến các đảo...

Hà nằm trong phòng nhớ lại, trước ngày lên tàu Hà về thăm nhà.

Chiều, Hà qua nhà ông Nam "già" (tướng già trước tuổi), ngắm bông giấy. Ông ngồi uống rượu, bà Sáu Hạnh đưa qua hàng rào đĩa "cá giò ba ngón". Ông bưng đĩa cá "cầm trúng" mấy đầu ngón tay bà, nói: Coi bộ bà này còn "ngon" nè, bàn tay mát lạnh giống hồi còn con gái.

Bà háy con mắt nói lại: Ước mơ có người đi chợ không có, mà uống rượu vào miệng nói "bắn phá" xa tới chuyện lâu lắc.

Uống ly rượu, ông kể chuyện "chiến đấu" với bạn nhậu trên bàn rượu bằng mồi ăn cơm. Hồi đó, vợ ông kho nồi cá để ăn bữa cơm chiều, ông gắp lủng một lỗ làm mồi nhậu, con ăn không đủ bữa. Vợ chồng xào xáo nói qua nói lại vì nồi cá mất dấu...

Nghe kể chuyện "đại sự" của người nhậu, bà Sáu Hạnh bên rào cười nắc nẻ, ông nhìn qua nói: Cười "quần què" gì ò?

Bà cười to thêm.

Người miền biển ăn sóng nói gió, có sao nói vậy, không mắc cỡ miệng. Từ ngữ chạy chữ nói ra viết theo bị trật, nhưng dễ mến, chỉ có chòm xóm mới hiểu hết ý, cười to hơn.

Ông Nam "già" sống mộc mạc. Vợ ông ở vùng nông thôn theo chồng về đây, bà mất khi đi mua rau. Hằng ngày bà chạy xe máy mua rau củ của các hộ dân vùng nông thôn, bị tai nạn...

Vợ mất, Nam "già" sáng chạy ghe ra biển bắt tôm cá, chiều về làm thêm trên bờ nuôi con ăn học. Nghề làm thêm trên bờ, ông trồng bông giấy bán kiếm tiền. Vườn bông giấy màu đỏ cờ, đỏ xác pháo, màu nắng vàng. Lần trước Hà về thấy ông Nam "già" bán "nắng vàng" trăm ngàn. Con ông ra trường công tác xa, ông bán bông giấy gửi tiền bà Sáu Hạnh đi chợ giùm.

Nghe kể hồi còn trẻ, hai người có "đá lông nheo", nhưng tình duyên không thành, bà Sáu Hạnh vui sống kiểu mỗi người dân là "chiến sĩ làm giàu". Bây giờ ai thương ông Nam "già" bằng bà Sáu Hạnh, bà và nhiều người ra biển kéo lưới đủ chia. Bà kho "cá giò ba ngón tay" bưng đưa qua hàng rào cho ông làm mồi nhậu.

Tàu chở mùa xuân trên biển đến thăm các đảo xa. Bữa 10 ngày (tàu rời cảng), ra giữa trùng khơi gặp gió lớn, vào vùng sóng lắc ngang. Gần đến giờ ăn, tổ phục vụ thông báo mời phóng viên báo, đài xuống nhà ăn dùng cơm. Lúc sóng lắc, bước một bước đến nhà ăn, tàu đẩy chạy ngang thêm ba bước, phải nắm cây inox dài hai bên thành tàu, vừa thả tay bước đến vừa chạy ngang.

"Linh đi hiên ngang bước qua ba bước lọt vào lòng anh", vừa lên bờ, Hà "khen" Linh, ý là bước qua bước lại chắn ngang lối đi, chớ không phải hiên ngang là người bước đi nhanh nhẹn dứt khoát, luôn ngẩng cao đầu.

"Ờ hén, nghe anh nói em nhận ra nhột ở bên, lúc đó tưởng xóc hông", Linh cười rồi kể, ngồi ăn nhìn nồi cơm biết chạy (bàn ăn có gờ, khi tàu gặp sóng lắc ngang nồi cơm chạy theo xoong canh đến gờ đứng lại). Lạ mà thương!

16 ngày tàu cập cảng đất liền, Linh nghĩ đến má ở trên núi. Từ đây đón xe đò hơn nửa ngày đường về quê. Linh đi chợ trên điện thoại (shipper). Từ cảng biển Linh "gửi tô bún giò cho má".

Về đến nhà, cúng tạ ông bà, có đứa bạn bán chả lụa, Linh dặn shipper một ký, bạn "đè" lên hai ký. Má xắt chả sắp 3 đĩa to. Linh múc canh bí, đĩa xào, đơm trái cây trên cổ bồng, đặt lên tủ thờ.

Hôm sau Linh xuống cơ quan. Đến ngã ba, ngồi uống nước quán bên đường. Chỗ đó là vùng trồng quất.

Hồi mấy đứa nhỏ đi học, qua chỗ ngã ba, phía trong vườn trồng quất, có chậu quất chín sớm, hái chơi trò ném xa. Có đứa ném xa ra đến ngã ba, Linh đi qua, trái quất "lở miệng" dính lên tà áo dài. Linh có "tình cảm" trái quất từ đó.

Linh nhớ người ở đảo "thương" trái quất "lở miệng".

Chậu quất đặt trước bàn thờ Tổ quốc, đỏ rực nhang đèn mâm cúng, đến giờ còn thơm món bếp Trường Sa.

Linh vào đất liền có "bí mật" là chưa thấy bếp Trường Sa.

Vào cơ quan, Linh tìm trong sổ tay ghi lúc tác nghiệp có số điện thoại nhà đứa nhỏ hái quất, gọi hỏi thăm thì người phụ nữ nói: "Ở Trường Sa nấu bếp lò xô dầu lửa".

Dầu lửa là dầu cháy lên ngọn lửa dùng để thắp đèn dầu, nấu bếp.

Linh sinh ra lớn lên thời đá lửa tim đèn (hộp quẹt bánh xe khạc ra lửa cháy tim đèn có thấm dầu lửa). Ba Linh đem hộp quẹt bánh xe đốt rẫy... Thu hoạch rẫy trồng keo, ba dọn cành nhánh đốt, trái pháo bi còn sót lại sau chiến tranh nằm sâu dưới đất, mưa xói lở trồi lên nổ... Ba gục bên vũng máu.

Trước đó ba kể, ba chết hụt đến mấy lần. Hồi nhỏ lên rẫy gặp trái pháo bi bung cánh, thấy lạ ba lượm lên, có ông chú đi qua xem hú hồn, trái pháo bi bung cánh còn hột nổ, ông đem đi tiêu hủy. Ba đào móng nhà trúng thùng đạn đại liên. Từ đó trong xóm đặt tên Xóm Đạn, nhắc mọi người...

Ba cao to như tướng núi. Nhìn lại tấm hình ba ẵm Linh, mắt Linh nhìn mặt ba như biểu hun lẹ đi ông già, cho con còn đi chơi nữa. Chiều nào ba cũng nựng hun Linh. Nghĩ lại thương một chiều thương.

Tối tắc kè kêu đếm tiếng, ba nói, tắc kè kêu mấy tiếng là sống mấy năm, Linh nghe con tắc kè kêu 7 tiếng rời rạc...

Ba Linh mất, đến bữa ăn, má ngồi chùi nước mắt bên mâm cơm. Vợ chồng thương nhau từng bữa ăn, hiểu nhau từng nồi cơm, người chừa cơm khô, người thèm nhão.

Má Linh một cuộc đời nói ra khóc hết nước mắt. Má lặng lẽ khóc thương cho số phận. Tàu cau khô rớt xuống trúng nồi nhôm để ngửa trên hòn gạch bị méo mó không có bàn tay đàn ông gò lại.

Ba mất, má cuốc rẫy trồng bí ngô trúng đá văng nhá lửa. Năm tháng tuổi thơ, già nửa buổi Linh theo má đi qua con suối rách (con suối nhỏ, dọc bờ suối có nhiều ngõ chảy ra) lên rẫy hái bí. Có lần lên rẫy trưa tròn bóng, tối Linh đổ mồ hôi trộm. Bệnh. Má thức trắng đêm lau mồ hôi cho Linh.

Trước ngày lên tàu, má nấu nồi canh nửa trái bí rẫy.

Linh mang trong tim cái rẫy ra giữa trùng khơi, má ở trên núi một đời cuốc rẫy chưa xong.

Hôm trên tàu, Linh về phòng "đòi giường". Hà ngồi trên giường chớ ai.

Tuổi thơ của Hà sống trong hoàn cảnh ba má nghèo trong khổ cực.

Ba má Hà làm nghề bán chợ trên xe máy. Chợ trong hai cái giỏ cần xé móc vào đòn gánh đèo hai bên xe gắn máy, "thồ" cá khô, nước mắm, chai dầu, từ miền biển lên trên núi bán. Người mua ra đầu ngõ đi chợ.

Ở trên núi, Linh thấy thương "vẻ đẹp" chợ di động giản dị, người bán nhân hậu. Cái lần ngồi giặt áo dài trắng bị dính dấu trái quất "lở miệng", Linh thấy má ra đầu ngõ đi chợ, lựa mua chai nước mắm dở rẻ tiền, nói nhỏ nhẹ, nợ nhen chị? Người bán gật đầu. Nhìn má đội nón rách nắm chai nước mắm mua nợ từ ngõ vô nhà mà nghẹn lòng. Má đem chai nước mắm xuống bếp rồi mà tiếng "nợ" còn thủ thỉ bên tai...

Nghề bán chợ di động, khổ sở mùa mưa lầy lội, xe máy lết bánh qua dốc Bà Ngồi.

Ba Hà kể chuyện chở chợ di động trên con đường vừa bánh cộ bò. Ngồi uống nước trà ở phòng lồi, ba nói: "Đặt tên dốc Bà Ngồi đúng thiệt, địa hình miền núi quanh co như y dáng đàn bà ngồi bệt. Ôm cua sát đít".

Đất đỏ, mùa mưa bão đường nhão nhoẹt. Trận bão cuối năm Thìn đầu năm Tỵ hoàn lưu bão gây mưa to trên núi, ba Hà chở chợ di động lên núi. Chiếc Dream lùn đổ dốc Bà Ngồi chà bánh sau bẻ tay lái ngã xe. Cá liệt búa xẻ làm tư phơi một nắng bị chai nước mắm đè thành miếng cá rách to ra. Ơn qua nghĩa lại, người miền núi xúm mua hết miếng cá rách về nướng làm bữa ăn cho gia đình.

Rồi một lần chà bánh dốc Bà Ngồi, xe ngã, má té ngồi bị thương xương cụt. Ba Hà bước đi chân rưỡi. Bỏ nghề bán dạo... Ba Hà kể, ngày ba cưới má về, ông bà nội cho cái bếp. Vợ chồng trẻ "cõng" chợ trên xe. Ba làm giàu cái bếp, xây thêm phòng lồi. Xây nhà "lở" ra phòng lồi, chi phí phát sinh từ mở móng đến máng thượng, phải vay mượn rồi ba ráng "cày đường" kiếm tiền trả nợ phòng lồi.

Trải qua thời gian ngôi nhà xiêu vẹo.

Năm Hà vào thành phố công tác, đài báo bão, Hà vội chạy về nhờ ông Nam "già" qua chằng chống quyết tâm giữ nhà nghèo của ba má trong tâm bão.

Chuyến đi đảo bị "đòi giường" về, Hà nhắn tin Linh rồi hay thu hồi tin nhắn, đắp mền cười. Tỏ tình mỗi ngày suốt nhiều tháng. Cuộc yêu xa mãnh liệt...

Linh đã một lần lên xe hoa. Hà nhiều tuổi còn độc thân. Hà không chê khen phụ nữ dang dở. Sáng, Linh đến nhà Hà thăm chơi rồi đòi ngủ trưa. Hai đứa nắm tay nhau, một nửa vừa khít.

Hà nói: Từ nghìn trùng ta gặp nhau đây. Gặp một lần, yêu nhau một đời.

****

Năm sau Linh - Hà ra đảo.

Đến cổng chào đảo Đá Tây hiện ra vẻ đẹp thiêng liêng của "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc". Từ cổng chào vào nhà Đại Đoàn Kết, bông giấy nở rực rỡ, nhìn màu đỏ cờ và đỏ xác pháo thì màu đỏ cờ "đỏ mạnh hơn" dưới bầu trời Tổ quốc.

Linh đến "góc bí mật" (cửa bếp) nhìn bếp Trường Sa. Thấy ngọn lửa cháy từ dầu lửa, Linh thương cháy lòng bếp Trường Sa đang "cười" ra ngọn lửa hòa bình.

Chuyến đi đảo của Hà mà bà Sáu Hạnh gặp lại anh trai liệt sĩ hy sinh ở Trường Sa.

Bà Sáu Hạnh kể ký ức về anh chỉ còn là những mảnh vụn mờ nhạt của một đứa trẻ lên 10, khi anh trai 18 tuổi, lên đường bảo vệ Tổ quốc, ra Trường Sa. Và cũng chính nơi đó là nơi anh trai bà đã hy sinh.

Bữa "nhậu cô ca cô la" trên đảo (liên hoan uống nước ngọt không dùng chất có cồn), Hà hỏi dò tìm ra phần mộ của liệt sĩ anh trai bà Sáu Hạnh được đồng đội chôn cất tại đảo. Sau đó, phần mộ được chuyển từ đảo về đất liền và chôn cất tại nghĩa trang liệt sĩ. Vào đất liền, nhờ sự giúp đỡ của Vùng 4 Hải quân, Hà đưa bà Sáu Hạnh và người thân gặp gỡ nghẹn ngào tại nghĩa trang liệt sĩ.

Nửa thế kỷ, bà Sáu Hạnh lần đầu đến viếng phần mộ liệt sĩ anh trai, có Nam "già" hàng xóm đi cùng. Bà thắp nhang ngồi "tâm sự" với anh trai rất lâu. Lúc chụp hình làm kỷ niệm, ông Nam "già" đứng nửa cái bụng phía sau bà Sáu Hạnh che bớt bụng nhậu.

Đưa bà Sáu Hạnh, Nam "già" về quê, Hà lên thăm má Linh. Hà thắp nhang trên bàn thờ ba, cầu mong ba phù hộ phước lành. Hà thưa với má Linh cho phép hai con bên nhau. Má Linh vui mừng nói giờ con thành đạt, má mừng, hồi đưa Linh xuống phường học, hai mẹ con ngồi ăn tô bún, thèm mà không dám kêu thêm cục giò, để dành tiền cho con ăn học.

Vòng ra sau nhà, Hà đứng cạnh lu đựng nước nứt miệng, chắc do lúc chà rong úp mạnh tay, ba Linh lấy hồ xi măng trám lại, tận dụng. Hà nhìn vệt xi măng màu trắng, thương miệng lu chịu tật, mong manh mà bền bỉ đứng hàng chục năm đứng bên cây cau mình ốm. Bên suối rách Xóm Đạn tắc kè kêu đếm từng tiếng hiền khô.

Rồi hai đứa xuôi về trên đường kết nối rừng - biển, qua dốc Bà Ngồi thảm nhựa. Chuyến đi trên tàu không "đòi giường" về chung một nhà. 

(*) Một cách diễn đạt dân gian, có nghĩa là còn thân cây thì còn có thể kết trái ở ngọn.

 

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: daisanjsc@gmail.com

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn