Đổi mới sáng tạo: Cơ hội vàng và vòng luẩn quẩn cần phá vỡ

Lần đầu tiên, Việt Nam tổ chức một sự kiện tôn vinh đổi mới sáng tạo ở tầm quốc gia với sự tham dự của Tổng Bí thư, Thủ tướng và nhiều lãnh đạo khác của Đảng và Nhà nước vào ngày 1/10 vừa qua.
Trong diễn đàn Tổng Bí thư Tô Lâm gửi lời nhắn đến tất cả: “Chúc ngọn lửa đổi mới sáng tạo trong mỗi chúng ta luôn bừng sáng, không ngừng khai mở tri thức mới, biến ý tưởng thành giá trị, góp phần kiến tạo tương lai Việt Nam giàu mạnh, thịnh vượng”.
Lời nhắn của Tổng Bí thư, và Ngày hội Đổi mới sáng tạo quốc gia là sự khẳng định định hướng chiến lược: đổi mới sáng tạo phải trở thành động lực hàng đầu cho sự phát triển quốc gia trong kỷ nguyên số.
Thế giới đang chuyển động với tốc độ chưa từng có. Trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, công nghệ sinh học, năng lượng sạch, vật liệu mới đang định hình lại cục diện cạnh tranh. Những quốc gia đi trước một bước sẽ nắm giữ lợi thế, tiến nhanh và tiến xa; những quốc gia chậm chân sẽ bị bỏ lại. Việt Nam không có lựa chọn nào khác ngoài việc coi khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá quan trọng nhất để đổi mới mô hình tăng trưởng. Đây không phải là khẩu hiệu, mà là vấn đề sống còn.
Đổi mới sáng tạo không chỉ gắn với các con số GDP, mà còn là con đường nâng cao năng suất lao động, sức cạnh tranh, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và cải thiện chất lượng sống. Lịch sử phát triển thế giới cho thấy, những bước nhảy vọt chỉ đạt được nhờ đột phá công nghệ. Nhưng với Việt Nam, để biến đổi mới sáng tạo thành sức mạnh thực chất, con đường phía trước không hề dễ dàng.
Những thành tựu bước đầu của công nghiệp công nghệ cao là đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu điện tử đã vượt 132 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm chế biến – lắp ráp điện tử hàng đầu thế giới.
Song nhìn kỹ, nền tảng này vẫn còn phụ thuộc vào khu vực FDI: 85% giá trị xuất khẩu thuộc về doanh nghiệp nước ngoài; công đoạn trong nước chủ yếu là lắp ráp, còn các khâu then chốt như thiết kế vi mạch hay chế tác bán dẫn tiên tiến do nước ngoài nắm giữ.
Theo báo cáo Cập nhật Kinh tế Việt Nam của Ngân hàng Thế giới hồi tháng trước, trong thập kỷ qua, các nhà sáng chế của Việt Nam thực chất chưa nộp hồ sơ xin cấp bằng sáng chế quốc tế về các công nghệ vi mạch bán dẫn. Hồ sơ xin cấp bằng sáng chế trong nước trong lĩnh vực vi điện tử mới chỉ bắt đầu tăng lên trong những năm gần đây – với tốc độ tăng khoảng 28% mỗi năm từ năm 2018 đến năm 2023, nhưng với xuất phát điểm rất thấp. Khoảng 70% số hồ sơ mới là của các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Trong khi đó, các quốc gia có thu nhập trung bình, như Malaysia và Thái Lan, mỗi nước đều nộp hàng chục hồ sơ xin cấp bằng sáng chế quốc tế về vi mạch bán dẫn trong thập kỷ qua, riêng Trung Quốc chiếm đến 55% số hồ sơ xin cấp bằng sáng chế trên toàn cầu về vi mạch bán dẫn trong gia đoạn 2021-22. Khoảng cách trên càng thể hiện rõ thách thức của Việt Nam trong công cuộc chuyển hóa kiến thức thành tài sản trí tuệ.
Về vị thế địa chiến lược, Việt Nam nằm ở trung tâm Đông Á, cạnh kề năm nền kinh tế hàng đầu thế giới về khoa học và công nghệ: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore và Đài Loan. Đây là lợi thế lớn khi chúng ta có thể kết nối vào mạng lưới tri thức và chuỗi giá trị khu vực. Nhưng đồng thời, sự gần gũi ấy cũng là sức ép, bởi các nền kinh tế láng giềng đã đầu tư hàng chục năm vào nhân tài và R&D, nay dẫn đầu trong thu hút vốn và nguồn lực chất lượng cao. Việt Nam đứng trước cơ hội và thách thức song hành: hoặc vươn lên, hoặc tụt lại.
Lợi thế không thể phủ nhận của Việt Nam là nguồn nhân lực trẻ. Năm 2023, cả nước có khoảng 560.000 chuyên gia STEM ở độ tuổi 22–35, một con số đáng kể với một nền kinh tế mới nổi. Số sinh viên theo học ngành STEM tăng 10% mỗi năm từ 2019 đến 2023. Trong lĩnh vực phần mềm và thiết kế vi mạch, hơn 80% lao động có bằng đại học và gần 90% làm ở vị trí đòi hỏi kỹ năng cao. Đây là nền tảng quan trọng để nuôi dưỡng đổi mới sáng tạo.
Nhìn vào chiều sâu, theo Ngân hàng Thế giới, thách thức vẫn hiện hữu: chỉ khoảng 80,9 nghìn nhân lực R&D toàn thời gian, tức 0,15% lực lượng lao động; chưa đến 800 nhà nghiên cứu trên một triệu dân, thấp hơn nhiều so với chuẩn mực quốc tế và dưới mục tiêu quốc gia. Việt Nam cũng chưa có trường đại học nào lọt top 200 thế giới về khoa học kỹ thuật, và chưa xây dựng được đội ngũ khoa học có uy tín quốc tế trong các lĩnh vực then chốt.
Điều đáng lo hơn là thiếu giảng viên tiến sĩ khiến đào tạo sau đại học hạn chế, dẫn đến thiếu hụt nhà nghiên cứu trình độ cao. Đầu tư cho giáo dục đại học và R&D còn thấp, các trường thiếu kinh phí, doanh nghiệp ít mặn mà nghiên cứu. Liên kết giữa đại học và doanh nghiệp lỏng lẻo, chương trình học lạc hậu, kỹ năng đào tạo không sát thực tiễn. Hạ tầng nghiên cứu và thử nghiệm còn thiếu, khiến sản phẩm khoa học khó thương mại hóa. Vòng luẩn quẩn này kéo dài nhiều năm, làm đổi mới sáng tạo chưa thể phát triển đúng tiềm năng.
Muốn phá vòng luẩn quẩn ấy, cần một cú hích chính sách đồng bộ và đủ mạnh.
Trước hết là phát triển nhân tài công nghệ thông qua học bổng quốc gia cho bậc sau đại học, chính sách thu hút nhân tài toàn cầu và chương trình giảng viên ưu tú.
Tiếp theo là đầu tư vào hạ tầng nghiên cứu – phát triển với các trung tâm quốc gia, nền tảng công nghệ mở và cơ sở đổi mới thí điểm để rút ngắn quãng đường từ phòng thí nghiệm ra thị trường.
Cuối cùng là tăng cường liên kết giữa đại học – doanh nghiệp – nhà nước bằng các cụm công nghệ, chương trình luân chuyển nhân lực và dự án hợp tác nghiên cứu.
Ba trụ cột này bổ trợ lẫn nhau, tạo vòng lặp tích cực về nhân tài và sản phẩm công nghệ, từ đó nâng cao sức cạnh tranh quốc gia.
Đổi mới sáng tạo là con đường duy nhất để Việt Nam bứt phá, không thể trì hoãn. Lợi thế là dân số trẻ, vị trí địa chiến lược và tốc độ đào tạo STEM. Thách thức là chất lượng nhân tài, nền tảng R&D yếu và thể chế chậm đổi mới.
Nếu không hành động, Việt Nam sẽ mãi là công xưởng lắp ráp. Nhưng nếu dám đi tới cùng, biến tri thức thành sức mạnh, đất nước hoàn toàn có thể bước vào nhóm quốc gia công nghệ cao trong vài thập kỷ tới.