3 sản phẩm công nghệ chiến lược được triển khai sớm: Cái tên trên bàn cân

(Dân trí) - Đây là bước đi quan trọng để phát triển nền kinh tế số và khẳng định năng lực sáng tạo quốc gia.
3 sản phẩm công nghệ chiến lược được triển khai sớm
3 sản phẩm công nghệ chiến lược cấp thiết sẽ được Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) trình Chính phủ lựa chọn để ưu tiên triển khai sớm nhằm phát triển kinh tế.
Theo thông tin được nêu ra trong cuộc họp báo ngày 5/8 của Bộ KH&CN, 3 sản phẩm sẽ được chọn lựa từ danh sách 6 công nghệ chiến lược.
Các công nghệ này bao gồm: thiết bị mạng di động 5G chuẩn ORAN, mô hình ngôn ngữ lớn và trợ lý ảo tiếng Việt, robot di động tự hành, nền tảng blockchain truy xuất nguồn gốc, thiết bị bay không người lái (UAV) và AI camera xử lý tại biên.
“Việc chọn ra ba sản phẩm nhằm triển khai làm mẫu, rút kinh nghiệm, truyền cảm hứng và khẳng định Việt Nam có thể làm chủ công nghệ lõi”, ông Hoàng Anh Tú, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và công nghệ cho biết.
Cũng theo ông Tú, thời gian tới, Bộ KH&CN sẽ tập trung thúc đẩy phát triển 1 đến 3 sản phẩm chiến lược có tính cấp thiết, khả năng thành công nhanh, tạo tác động lan tỏa và có sự sẵn sàng tham gia của doanh nghiệp để triển khai tiên phong.
Để triển khai công nghệ chiến lược, Bộ đã tổ chức khảo sát, làm việc với doanh nghiệp, viện trường lớn tại Hà Nội và TPHCM, xác định công nghệ và sản phẩm cụ thể, quy mô đầu tư và khả năng tham gia phát triển của các doanh nghiệp, viện trường.
Đồng thời, Bộ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án quốc gia phát triển công nghệ chiến lược đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2035, bao gồm Chương trình KH&CN quốc gia phát triển công nghệ chiến lược, gồm 11 chương trình thành phần, tương ứng 11 nhóm công nghệ chiến lược.
Mỗi chương trình thành phần sẽ giao cho một Bộ, ngành chủ trì. Bộ KH&CN cũng sẽ triển khai đồng bộ các giải pháp để phát triển công nghệ chiến lược.
Cụ thể, thành lập các trung tâm giải mã công nghệ và kỹ thuật đảo ngược; cho phép sử dụng ngân sách để mua, giải mã và nội địa hóa công nghệ; từng bước hình thành các cụm công nghệ chiến lược tại địa phương, mỗi cụm tập trung vào một số công nghệ chủ lực theo lợi thế vùng, với cơ chế đặc thù về đầu tư công, đất đai, tài chính và nhân lực.
Cùng với đó, xây dựng chương trình truyền thông quốc gia về phát triển công nghệ chiến lược nhằm nâng cao nhận thức xã hội, đưa sản phẩm công nghệ chiến lược "Make in Vietnam" ra quốc tế.
Liên quan đến phương thức triển khai nhiệm vụ KH&CN, Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Hoàng Phương cho biết, Bộ đã chuyển từ cơ chế tiếp nhận đăng ký đề tài sang chủ động "đặt hàng" các viện nghiên cứu, doanh nghiệp. Hiện đã có khoảng 38 đơn vị được Bộ làm việc trực tiếp để xác định các nhiệm vụ nghiên cứu phù hợp.
Theo Thứ trưởng Bùi Hoàng Phương, Bộ KH&CN là cơ quan nắm rõ về các công nghệ chiến lược, công nghệ mới cũng như nhu cầu phát triển của đất nước, do đó việc chủ động đặt hàng nghiên cứu là bước chuyển quan trọng, tạo sự chủ động và hiệu quả cao hơn trong công tác định hướng và ứng dụng KH&CN.
Cơ chế “vượt khung” để thúc đẩy khoa học công nghệ
Để cụ thể hóa tinh thần của Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo 2025 và triển khai các cơ chế "vượt khung", Bộ KH&CN dự kiến sẽ tập trung vào các chính sách cụ thể:
Xây dựng và ban hành các quy định cụ thể về cơ chế chấp nhận rủi ro; cơ chế tự chủ đối với các tổ chức KH&CN công lập; chính sách thu hút, sử dụng và trọng dụng đối với nhân tài, nhân lực chất lượng cao và quy định về phân chia lợi ích từ kết quả nghiên cứu.
Xây dựng, tổ chức triển khai thực hiện Đề án "Phát triển, trọng dụng nhân tài, nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia".
Bộ phát triển các chương trình quốc gia có mục tiêu cụ thể để thu hút các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài về làm việc, cũng như các chuyên gia nước ngoài có kinh nghiệm. Các chương trình này có thể bao gồm gói hỗ trợ tài chính đặc biệt, điều kiện làm việc ưu việt, và cơ hội phát triển sự nghiệp rõ ràng.
Đầu tư vào hạ tầng và môi trường nghiên cứu: Nâng cấp các phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế, xây dựng các khu công nghệ cao, vườn ươm công nghệ để tạo môi trường thuận lợi cho sáng tạo và đổi mới.
Thúc đẩy liên kết giữa nghiên cứu và doanh nghiệp: Khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào R&D, hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học để ứng dụng kết quả khoa học vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh; phát triển thị trường cho các sản phẩm KH&CN.
Thúc đẩy hợp tác quốc tế và chuyển giao công nghệ: Tạo điều kiện cho các nhà khoa học Việt Nam tham gia vào các dự án quốc tế, các mạng lưới nghiên cứu toàn cầu, đồng thời thu hút các tập đoàn công nghệ lớn đặt trung tâm R&D tại Việt Nam.
Giảm thiểu các rào cản hành chính, đảm bảo quyền tự chủ tối đa cho nhà khoa học, cung cấp nguồn lực (tài chính, trang thiết bị, cơ sở dữ liệu) bảo đảm cho nghiên cứu và thử nghiệm.
Đánh giá dựa trên hiệu quả và sản phẩm: Thay vì nặng về quy trình, tập trung vào kết quả đầu ra, các công bố quốc tế, bằng sáng chế, sản phẩm thương mại hóa có giá trị.