Ngô Tất Tố, nhà văn - nhà báo hiện thực hàng đầu

Trước Cách mạng tháng Tám 1945, nhiều nhà văn lớn của Việt Nam không chỉ để lại dấu ấn sâu sắc trong văn học mà còn là những cây bút báo chí xuất sắc. Họ sử dụng ngòi bút như một vũ khí để phản ánh hiện thực xã hội, đấu tranh cho công lý, phơi bày bất công, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền văn hóa dân tộc.
Nhà văn Ngô Tất Tố (1894 - 1954) là người làng Lộc Hà, xã Mai Lâm, H.Đông Anh, Hà Nội. Ông không chỉ là nhà văn lớn của văn học hiện thực phê phán Việt Nam mà còn là một nhà báo tiên phong, sắc sảo, có ảnh hưởng sâu rộng trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ 20.
Trước khi nổi danh với tiểu thuyết Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã là một cây bút kỳ cựu, đóng góp cho nhiều tờ báo lớn như: Hà Thành ngọ báo, Đông Dương tạp chí, An Nam tạp chí, Thực Nghiệp Dân Báo, Phong Hóa, Ngày Nay, Trung Bắc chủ nhật… Dưới nhiều bút danh, ông để lại cả ngàn bài viết đủ thể loại: tiểu luận xã hội, phóng sự điều tra, bài nghiên cứu lịch sử - văn hóa dân gian, bình luận chính trị xã hội…, cho thấy tầm vóc của một trí thức luôn dấn thân vì dân, vì nước.
Trong các tác phẩm báo chí tiêu biểu của Ngô Tất Tố có thiên phóng sự Tập án cái đình (báo Trung Bắc Chủ Nhật, 1938) nổi tiếng vì sự châm biếm sắc sảo. Tác phẩm mô tả một vụ kiện tụng quanh việc tu sửa đình làng, một biểu tượng văn hóa làng xã, để từ đó bóc trần sự thối nát của bộ máy quan lại, sự thiển cận và rối rắm trong thủ tục hành chính thời Pháp thuộc. Đây là tác phẩm thể hiện rõ tài năng viết phóng sự của Ngô Tất Tố, kết hợp giữa hiện thực sắc lạnh và giọng văn trào phúng, phơi bày sự tha hóa của đạo lý làng xã truyền thống.
Trên Hà Thành ngọ báo, ông viết các bài tiểu luận xã hội phê phán thuế thân, sưu cao thuế nặng, bóc lột nông dân như: Lối xóm có người đi sưu về; Cái chết của một người vợ; Một ông quan phủ đi tuần… Qua đó, ông tạo tiền đề tư tưởng cho tiểu thuyết Tắt đèn khi mô tả sâu sắc đời sống lầm than của tầng lớp dưới đáy xã hội, đặc biệt là người phụ nữ nông dân. Ngô Tất Tố còn nhiều bài báo phê phán giáo dục nho học và hiện tượng học giả "dỏm" như Trò đời văn học hay Giấy chứng chỉ và sự học.
Nhiều lần Ngô Tất Tố bị cấm viết báo và bị trục xuất khỏi Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Năm 1939, chính quyền thuộc địa ra lệnh cấm tác phẩm Tắt đèn. Nhà Ngô Tất Tố ở quê bị khám xét và ông bị bắt giam ở Hà Nội vài tháng. Sau này, người ta tìm thấy 1.350 tác phẩm (gần 4.500 trang) đã đăng báo của Ngô Tất Tố với 59 bút danh khác nhau. Di sản báo chí của Ngô Tất Tố trở thành những tư liệu phong phú, chi tiết, phản ánh toàn diện và trung thực xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20.
Ngôn ngữ báo chí của Ngô Tất Tố đa giọng điệu, sâu sắc và giàu tính chiến đấu, kết hợp tài tình giữa tư duy cổ học và ngòi bút hiện đại. Trong đó, nổi bật là giọng điệu trào phúng, mỉa mai sâu cay. Không ít bài báo của ông như những bài "văn nghị luận dân gian" khi sử dụng ngôn ngữ như "kể chuyện", lấy ví dụ từ ruộng đồng, đình làng, lũy tre, người vợ nghèo, ông lý trưởng… để làm bật lên tiếng nói của người dân thấp cổ bé họng. Ông là ngòi bút vì dân và vì sự thật.
ĐÔI CHUYỆN ĐỜI THƯỜNG
Trong một lần trò chuyện với người viết, bà Ngô Thị Thanh Lịch, con gái Ngô Tất Tố, cho biết hồi bé bà ở với bố mẹ ở làng Lộc Hà, chứng kiến một chuyện khá thú vị.
Nửa đêm hôm ấy, người làng đến nhà ông Ngô Tất Tố báo: "Vừa bắt được một thằng bẻ trộm ngô của nhà ông ngoài đồng, ông ra đình mà đánh cho nó một trận rồi lấy ngô về". Nhà văn chống ba-toong ra tới nơi, đã thấy mấy người làng trói gô anh này trong một cái bao tải. Ông Tố vội bảo: "Cởi trói, thả người ta ra!". Sau khi người làng cởi trói cho anh ta, ông Tố bảo các con ra về, hai sọt ngô cũng để lại.
Bà Lịch kể tiếp: "Năm ấy, vào mùa mưa tháng 7, mưa to lắm, nước ngập mênh mông, mấy chị em tôi muốn ăn ốc. Cụ Tố đi tìm một anh người làng chuyên mò cua, bắt ốc, đánh dậm bảo đến cái ao nhà tôi để bắt ốc. Anh này đến, cuộn chiếc quần đang mặc lên đầu, lội xuống ao một lúc bắt đầy mấy giỏ ốc mang lên. Khi cụ Tố trả tiền cho anh đánh dậm, chị gái tôi nói với cha: "Ốc của mình mà sao thầy mua đắt như ở ngoài chợ thế!". Cụ Tố mắng át đi: "Thế tự nhiên ốc nó bò lên mồm mày à!", rồi cụ cho tiền anh ta, bảo về".
Năm 1945, khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, Ngô Tất Tố tham gia Ủy ban Giải phóng ở xã Lộc Hà quê ông. Năm 1946, ông gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc và lên Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp, đảm nhiệm cương vị Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ Việt Bắc và tham gia viết báo. Ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ nhất (1948). Ngô Tất Tố qua đời ngày 20.4.1954 tại Yên Thế, Bắc Giang. (còn tiếp)