Hà Tiên thập cảnh: Kim Dự lan đào chỉ còn phế tích

Hà Tiên thuộc tỉnh An Giang (trước đây là Kiên Giang), nổi tiếng với 10 danh lam được gọi chung là Hà Tiên thập cảnh. Thi sĩ Đông Hồ từng nhận xét: "Mỗi khi nói đến Hà Tiên, ai cũng đều phải nhắc đến Hà Tiên thập cảnh. Bởi vì, nếu không có 10 danh thắng đó, thì Hà Tiên có gì đáng để mà nói hơn".
Kim Dự lan đào là tên bài thơ thứ nhất trong tập Hà Tiên thập vịnh của Mạc Thiên Tích mô tả cảnh đẹp của hòn Kim Dự: "Kim Dự này là núi chốt then/Xanh xanh dành trấn cửa Hà Tiên/Ngăn ngừa nước dữ khôn vùng vẫy/Che chở dân lành khỏi ngửa nghiêng…".
Hạt ngọc của trấn
Nằm cạnh cầu Tô Châu, hòn Kim Dự (thuộc P.Hà Tiên, An Giang - trước đây là TP.Hà Tiên, Kiên Giang) có chiều cao khoảng 25 m, đường lên đỉnh có một con lộ trải nhựa, xe chạy thẳng đến cửa khách sạn mang tên Pháo Đài, ngày đêm gió thổi lồng lộng. Từ vị trí này, du khách có thể ngắm nhìn cầu Tô Châu tấp nập người, xe qua lại, ngắm bình minh, hoàng hôn với sóng biển rì rào. Theo giải nghĩa của thi sĩ Đông Hồ, Kim Dự lan đào là hòn đảo vàng trước cửa biển Hà Tiên, ngăn chặn sóng gió, giữ gìn cho nội địa được yên ổn.
Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (bản dịch của Phạm Hoàng Quân) chép: "Đại Kim Dự ở bờ biển phía nam trấn thự, chu vi 193 trượng 5 thước, đứng ngăn sóng dữ, là hạt ngọc của trấn. Nơi bờ có bắc cầu gỗ để ra vào, đằng sau núi có Quan Âm viện là chỗ Tống Thị Sương tịnh tâm thêu tranh Phật. Phía bên trái có điếu đình để du khách thả câu ngâm vịnh lúc gió mát trăng trong. Phía trước đảo có đặt trại canh phòng, phía tây nam xây vòng lũy đá để giữ giặc biển. Đây là Kim Dự lan đào, một trong mười cảnh đẹp ở Hà Tiên".
Từ năm 1833, nhà Nguyễn dưới triều Minh Mạng đã cho tu bổ lại và xây pháo đài kiên cố, đặt thêm súng thần công trên núi, từ đó hòn Kim Dự còn có tên là núi Pháo Đài - một cứ điểm quân sự để trấn giữ cửa biển. Do thủy triều lên xuống, khoảng cách giữa hòn đảo với đất liền nhìn thấy lúc xa, lúc gần nên truyền thuyết dân gian cho rằng hòn Kim Dự nổi và trôi ra trôi vào theo con nước… Lại có câu chuyện dưới hòn đảo có con giao long nằm ẩn mình, tu đã lâu đời. Thỉnh thoảng, con giao long cựa mình, làm cho hòn đảo xê dịch, khi trôi ra xa, lúc dạt vào bờ.
Sau khi chiếm Hà Tiên năm 1867, thực dân Pháp dùng Pháo Đài làm nơi đóng quân. Họ cho bắc lại cây cầu bằng đá và xây một trại tù, đồng thời bắt tù nhân đắp một con đường nối hòn Pháo Đài với đất liền về phía chợ Hà Tiên, xưa gọi là xóm Cầu Đá và đường Cầu Đá, nay là đường Mạc Thiên Tích.
Những dấu tích còn lại…
Khoảng năm 1912, Pháp chấm dứt các hoạt động quân sự trên núi. Bấy giờ, Pháo Đài chuyển sang làm nhà thương, rồi sau đó cất bungalow làm nơi nghỉ dưỡng. Đến khoảng năm 1935, nhà thương ấy vẫn còn.
Trong du ký 30 ngày xa xứ của Tuyết Hoa đăng trên báo Tân Văn (số ra ngày 29.9.1934) có mô tả: "Pháo Đài là một khu đất rộng, chung quanh thấp, chính giữa nổi lên một gò đất cao. Chỗ này trước kia là trại lính Lang Sa, hiện giờ là bungalow và nhà thương. Có nơi vẫn còn vách thành dày 8 tấc. Ở đây cũng có đèn pha (hải đăng) để cho thuyền bè tránh sự đụng chạm khi vô hòn trong đêm tối. Trên bờ biển vẫn còn mấy khẩu cà nông chĩa ra mặt biển, nhưng nay đã hư và sét hết không dùng được nữa".
Về bungalow trên Pháo Đài, trong tập du ký Thất Sơn - Hà Tiên xuất bản năm 1935, tác giả Cửu Long Giang viết: "Khách sạn ở trên một cái nổng đất cao, chung quanh có đường lộ, xe hơi đi lên tới trên được, nhưng phải đi vòng quanh khu ốc, đi bộ lên xuống có mấy cấp thang bằng đá. Từ khách sạn dòm xuống vịnh, sóng vỗ ồn ào, gió thổi mát mẻ. Cái nền đồn lũy hồi "cựu trào" vẫn còn cửa thành cũ, đá gạch nứt nẻ. Hai khẩu thần công thì gỉ sét đóng đầy, chong miệng rộng dường như chứng minh cùng tuế nguyệt rằng xưa kia từng phen sấm sét mà giữ vững giang sơn, bờ cõi này".
Giai đoạn 1960 - 1975, núi Pháo Đài lại trở thành một căn cứ quân sự của quân đội Việt Nam Cộng hòa và lính Mỹ. Dân chúng không được lui tới.
Hiện tại, đảo Kim Dự ít người nhắc, nhưng dưới chân núi trên đường số 6 có quán cà phê lấy tên là Kim Dự, có lẽ chủ quán là người có tìm hiểu lịch sử địa phương. Riêng dấu tích về đồn lũy thời xưa chỉ còn sót lại 2 cái lô cốt thời Pháp đã vỡ vụn nhiều chỗ. Còn các khẩu thần công thì anh quản lý khách sạn Pháo Đài cho biết địa phương đã có kế hoạch phục chế để phục vụ du khách tham quan.
…và cái am nhỏ trên núi
Sách Gia Định thành thông chí kể lại câu chuyện bà Tống Thị Sương đi tu ở một cái am nhỏ trên núi Kim Dự: "Thời Mạc Đô đốc, có Tống Thị Sương là con gái nhà giàu, tuổi vừa cặp kê, nữ công tuyệt xảo, mai mối tới lui nhưng không đồng ý, cô nói: đợi có Phật dạy thì mới kết nhân duyên…
Lúc ấy có vị tăng là Ngộ Chân tu hành nghiêm túc, chỉ niệm Phật hiệu, không học kinh điển, không ăn đồ vật hôi tanh và ngũ cốc, mỗi ngày chỉ ăn một bữa rau quả mà thôi, lại có nhiều hành vi kỳ lạ, người ta gọi là Thái tăng. Bữa nọ thầy đi ngang qua ngõ, thấy Tống Thị Sương phơi áo lót, hớn hở vào năn nỉ hỏi xin, bảo là dùng để nguyện cúng Phật. Cha mẹ cô mắng nhiếc đuổi đi. Thầy tăng cười lớn một tiếng rồi đi thẳng.
Từ đấy, cô phát lòng từ bi, miệng thường niệm Phật, nguyện bỏ hết việc đời, cắt tóc làm ni cô theo hầu đức Quan Âm Đại Sĩ. Gia đình khuyên bảo hết cách mà không được, bất đắc dĩ phải làm cái am ở phía bên trái hòn Đại Kim. Cô mừng vui đến ở, thêu tượng Quan Âm cao bằng mình người, mỗi lần cô xuống mũi kim thì niệm Phật một tiếng, thêu 3 tháng thì xong, nét màu sinh động như Phật sống…".
Câu chuyện trên thực hư khó kiểm chứng. Chỉ biết hiện nay ở phía sau khách sạn Pháo Đài còn có một cái miếu nhỏ, dưới gốc cây bồ đề to lớn. Trong miếu không có bài vị thờ cúng, nhưng người quản lý khách sạn nói đó là nơi ghi dấu cái am tu thời xưa. (còn tiếp)