Nam Cao và những trăn trở về kiếp người

Nam Cao là một trong những cây bút xuất sắc nhất của văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945. Bên cạnh những truyện ngắn nổi tiếng như Chí Phèo, Lão Hạc, Sống mòn, Nam Cao còn là một nhà báo âm thầm nhưng bền bỉ, góp phần xây dựng nền báo chí nhân đạo, phản ánh sâu sắc nỗi đau, khát vọng và thân phận con người.
Theo cuốn kỷ yếu Nhà văn Việt Nam hiện đại, nhà văn Nam Cao sinh năm 1917, tên thật là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, tỉnh Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, H.Lý Nhân, Hà Nam), hy sinh năm 1951 tại Hoàng Đan, Ninh Bình. Bút danh của ông được ghép từ hai chữ của tên tổng và huyện.
Nhà văn Nam Cao được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996. Ông được coi là "vua truyện ngắn", đến nay còn không ít tiểu thuyết và truyện ngắn bị thất lạc.
Nam Cao nổi tiếng với nhiều truyện ngắn đăng báo phản ánh đời sống lầm than của những trí thức tiểu tư sản, người nghèo đô thị, như Sống mòn, Chí Phèo. Văn báo chí và văn chương của Nam Cao hòa quyện vào nhau, thể hiện sự trăn trở về kiếp người và khát vọng sống có ý nghĩa.
Nam Cao không viết phóng sự điều tra như Vũ Trọng Phụng, cũng không châm biếm mạnh như Nguyễn Công Hoan, mà ông viết báo bằng truyện ngắn, bằng những mảnh đời rất thật, rất đau. Văn báo chí của ông mang màu văn chương hiện thực. Trước 1945, nhiều truyện ngắn của ông được xem là văn bản báo chí hiện thực tiêu biểu như: Đời thừa đã khắc họa bi kịch của trí thức tiểu tư sản viết văn để sống, viết báo để chiều thị hiếu, nhưng lại khao khát viết "cho ra cái gì cao quý và bền vững". Sống mòn là một truyện dài viết theo kiểu nhật ký, chính là dạng phóng sự nội tâm về thân phận người trí thức nghèo sống lay lắt trong xã hội thuộc địa. Hoặc các truyện ngắn: Một bữa no, Lang Rận, Nỗi buồn,
Ở hiền… đều được đăng báo, phác họa bức tranh nông thôn nghèo đói, bóc trần sự tàn nhẫn của cơ chế đẩy người dân vào tha hóa, mù quáng. Những truyện ngắn này mang tính báo chí cao khi miêu tả hiện thực, ghi chép tinh tế đời sống, phê phán xã hội, và thức tỉnh lương tri độc giả.
Một đặc điểm nổi bật của Nam Cao là ngôn ngữ báo chí mang tính thầm lặng mà ám ảnh, ngôn ngữ đi vào nội tâm, không cần gào thét mà vẫn gây chấn động. Ngược với giọng trào lộng hay điều tra xã hội của Vũ Trọng Phụng, Nam Cao viết như thì thầm nhưng chính sự tiết chế cảm xúc, cùng khả năng miêu tả nỗi đau âm thầm, đã khiến ngôn ngữ báo chí của ông mang tính nhân văn sâu sắc. Ví dụ đoạn ông tả Chí Phèo khóc trong cơn say, sau khi bị Thị Nở từ chối:
"Hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt… Hắn muốn làm người lương thiện... Ai cho hắn lương thiện?".
LỐI VIẾT "THỰC ĐỊA TINH THẦN"
Thứ văn của Nam Cao là thứ ngôn văn giản dị nhưng găm sâu vào tâm trí, không hoa mỹ, không cầu kỳ, ông dùng từ rất mộc mạc nhưng có chiều sâu. Mỗi câu văn mang theo hơi thở của đời sống, vừa chân thật vừa đẫm chất triết lý, ví dụ như "Người ta khổ không phải vì nghèo, mà vì không có tình thương". Dù là văn học, đây cũng là ngôn ngữ của nhà báo biết nhìn thấy bản chất xã hội từ từng chi tiết nhỏ. Ông có lối viết "thực địa tinh thần" với sự quan sát sâu sắc và đồng cảm. Nam Cao không đi điều tra hiện trường, nhưng ông đi sâu vào đời sống và hiện thực của tâm hồn người nghèo, kẻ thất học, trí thức bị chà đạp. Sự đồng cảm của ông không phải từ xa mà từ việc sống giữa họ, quan sát, lắng nghe, rồi tái hiện bằng câu chữ như những bản tin xúc cảm.
Trong cách viết, Nam Cao luôn duy trì tư duy phản tỉnh từ những chuyện nhỏ đến vấn đề lớn. Ông thường bắt đầu từ một chi tiết nhỏ: một bữa cơm, một cái chết, một cái nhìn, một lần tuyệt vọng… rồi mở ra cả một hệ thống vấn đề xã hội. Đây là kỹ năng báo chí cần học hỏi khi dùng tiểu tiết để soi rọi đại thể.
Theo quan điểm của Nam Cao, việc viết báo là để con người đọc và suy nghĩ lại về chính mình. Ông không viết để gây sốc mà viết để lay động, đó là thứ báo chí giáo dục cảm xúc, giúp xã hội biết đặt câu hỏi: "Tại sao người như Chí Phèo lại không được làm người lương thiện? Ai đã đẩy họ ra khỏi nhân tính?". Nam Cao là người đưa báo chí tiến gần hơn với chiều sâu tâm hồn con người. Ông không chỉ phản ánh hiện thực mà còn phản chiếu bản ngã, nỗi đau, và nhân phẩm của người dân dưới đáy xã hội. Ngôn ngữ báo chí của ông là minh chứng rằng một cây bút có lương tâm không cần ồn ào để thức tỉnh xã hội. Trong một thời đại báo chí ngập tràn tin tức nhanh, Nam Cao nhắc ta rằng viết báo không chỉ là việc đưa tin mà là thắp sáng một phần bóng tối mà người khác không thấy hoặc cố lờ đi.(còn tiếp)