“Hồi ức, Giấc mơ, Suy ngẫm” là cuốn hồi ký được viết vào cuối đời của nhà tâm lý học vĩ đại Carl Gustav Jung, phần lớn được kể cho người cộng sự Aniela Jaffé, rồi chính ông biên tập, chỉnh sửa và bổ sung.
Khi đọc bản văn thế kỷ 16 Rosarium Philosophorum (Vườn hồng của các nhà triết học), tôi nhận thấy một số cụm từ và lối diễn đạt kỳ lạ được lặp đi lặp lại. Ví dụ như solve et coagula (hòa tan và kết tụ), unum vas (một bình duy nhất), lapis (hòn đá), prima materia (vật chất đầu tiên), Mercurius, v.v.. Tôi thấy rằng các cụm từ này liên tục được sử dụng theo một nghĩa nào đó, nhưng tôi không thể nào nắm được nghĩa ấy là gì.
Vì thế, tôi quyết định bắt đầu lập một bảng từ khóa kèm theo các dẫn chiếu. Theo thời gian, tôi tập hợp được hàng ngàn cụm từ và từ khóa như vậy, và có cả một tập dày các đoạn trích. Tôi làm việc theo phương pháp cổ ngữ, như thể đang cố giải mã một ngôn ngữ chưa biết. Nhờ đó, cách diễn đạt của giả kim thuật dần hé lộ ý nghĩa của nó. Đó là nhiệm vụ đã chiếm trọn lấy tôi suốt hơn một thập kỷ.
|
| Hình ảnh từ phim tài liệu C.G.Jung on Alchemy (tạm dịch: C.G.Jung về giả kim thuật; 2023; Sara Ferro và Chris Weil đạo diễn). Ảnh: Mubi. |
Tôi sớm nhận ra rằng tâm lý học phân tích có một sự trùng khớp kỳ lạ với giả kim thuật. Trải nghiệm của các nhà giả kim, ở một nghĩa nào đó, chính là trải nghiệm của tôi, và thế giới của họ là thế giới của tôi. Đây hiển nhiên là một khám phá trọng đại: tôi đã tình cờ bắt gặp đối tượng lịch sử tương ứng với tâm lý học vô thức của chính mình.
Khả năng so sánh với giả kim thuật, cùng với chuỗi tư tưởng liên tục kéo dài trở lại tới Ngộ đạo, đã mang lại thực chất cho nền tâm lý học của tôi. Khi tôi chìm mình vào các văn bản cổ ấy, mọi thứ đều rơi vào đúng vị trí: các hình ảnh tưởng tượng, tư liệu thực nghiệm mà tôi thu thập được từ quá trình hành nghề, và các kết luận tôi rút ra từ đó.
Tôi bắt đầu hiểu các nội dung tâm thức đó có nghĩa gì khi được nhìn trong bối cảnh lịch sử. Việc nhận thức được tính điển hình của chúng, điều mà tôi đã bắt đầu từ khi nghiên cứu các huyền thoại, giờ đây trở nên sâu sắc hơn. Các hình ảnh nguyên thủy và bản chất của nguyên mẫu bắt đầu chiếm vị trí trung tâm trong nghiên cứu của tôi, và tôi nhận ra không có lịch sử thì không thể có tâm lý học - và chắc chắn là không thể có tâm lý học về vô thức.
Một tâm lý học của ý thức có thể tạm bằng lòng với chất liệu từ đời sống cá nhân, nhưng ngay khi muốn lý giải một chứng loạn thần kinh, chúng ta cần đến một truy nguyên ký ức sâu hơn cả những gì ý thức có thể cung cấp. Và khi trong quá trình điều trị xuất hiện những quyết định bất thường, sẽ có những giấc mơ đòi hỏi phải có hiểu biết vượt ra ngoài ký ức cá nhân mới có thể diễn giải được.
Tôi coi công trình của mình về giả kim thuật là dấu hiệu của mối quan hệ nội tâm sâu sắc giữa tôi và Goethe. Bí mật của Goethe là ông bị cuốn vào quá trình chuyển hóa nguyên mẫu đã diễn ra suốt nhiều thế kỷ. Ông xem Faust là một đại tác phẩm hay một công trình thiêng. Ông gọi nó là “việc chính” của mình, và toàn bộ cuộc đời ông được triển khai trong khuôn khổ của vở kịch này.
Vì vậy, điều sống động và đang vận hành trong ông là một thực thể sống, một quá trình vượt khỏi cá nhân, giấc mơ vĩ đại của mundus archetypus - thế giới nguyên mẫu. Tôi cũng bị ám ảnh bởi giấc mơ tương tự, và từ năm 11 tuổi tôi đã được ném vào một công cuộc duy nhất, mà tôi gọi là “việc chính” của mình. Cuộc đời tôi đã được xuyên thấu và gắn kết lại bởi một ý tưởng và một mục tiêu duy nhất: đó là đi sâu vào bí mật của nhân cách. Mọi thứ đều có thể được giải thích từ điểm trung tâm ấy, và tất cả các công trình của tôi đều liên quan đến chủ đề duy nhất này.













