Nhảy đến nội dung
 

Xóa cơ chế trả lương bình quân: Cuộc cải cách hơn nửa thế kỷ trước

(Dân trí) - Từ năm 1957 đến 1960, Việt Nam tiến hành hai đợt cải cách tiền lương lớn, từng bước xóa bỏ cơ chế trả lương cào bằng, hướng tới nguyên tắc phân phối theo lao động.

Sau giai đoạn kháng chiến chống Pháp, miền Bắc bước vào thời kỳ hòa bình, tập trung khôi phục kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bộ máy quản lý Nhà nước dần được củng cố, kéo theo yêu cầu phải điều hành hiệu quả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, hành chính.

Trong bối cảnh đó, theo tư liệu từ cuốn "Lịch sử ngành Nội vụ", chế độ tiền lương cũ bộc lộ nhiều bất cập, thiếu đồng bộ giữa các ngành, còn nặng tính bình quân, chưa gắn với hiệu quả công việc. Việc cải tiến hệ thống tiền lương trở thành một nhiệm vụ cấp thiết, góp phần động viên đội ngũ cán bộ, công nhân viên và nâng cao hiệu quả quản lý.

Nhận thức rõ vấn đề, Kế hoạch Nhà nước ba năm (1957-1960) xác định một trong những mục tiêu trọng tâm là cải tiến chế độ tiền lương. Chỉ tiêu cụ thể là tăng lương bình quân 25% so với năm 1957, đồng thời thống nhất chế độ lương với bảo hiểm xã hội, trợ cấp, phụ cấp và thực hiện kế hoạch hóa lao động - tiền lương. Bộ Nội vụ, với vai trò là cơ quan chủ trì tham mưu, đã cùng các bộ, ngành xây dựng chính sách và hướng dẫn thực hiện trên phạm vi toàn quốc.

Cải cách thang bảng lương, 91% cán bộ công chức được tăng lương

Ngày 31/5/1958, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 270-TTg quy định chế độ lương mới cho khu vực hành chính - sự nghiệp. Một tháng sau, Bộ Nội vụ ra Thông tư số 46 hướng dẫn cụ thể việc xếp bậc cho cán bộ, công nhân viên, cải tiến cách tính lương, định rõ tiêu chuẩn và phương pháp xếp bậc theo từng loại thang.

Việc triển khai được thực hiện ngay trong tháng 7/1958 trên toàn quốc, với nội dung nhấn mạnh sự chuẩn hóa đối tượng, thống nhất phương pháp và tiêu chí thực hiện. Đợt cải cách đầu tiên này đạt nhiều kết quả đáng kể: 91,04% cán bộ, công nhân viên được tăng lương, với mức tăng bình quân 10,9 đồng/người (tương đương gần 33kg gạo theo sức mua thời điểm đó). Đây là mức tăng có ý nghĩa trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn.

Bên cạnh điều chỉnh tiền lương, đợt cải cách năm 1958 còn có nhiều thay đổi về chế độ phụ cấp. Phụ cấp con được chuyển thành trợ cấp gia đình đông con; chế độ cung cấp và bán cung cấp dần bị loại bỏ; một số viên chức lưu dung được đưa vào thang lương chung. Những thay đổi này góp phần làm rõ mối quan hệ giữa đãi ngộ và chức trách, bước đầu khắc phục tình trạng trả lương cào bằng.

Tuy nhiên, báo cáo sau đó cũng chỉ ra những điểm chưa hợp lý như tiêu chí về tiêu chuẩn đạo đức, lịch sử công tác được đưa vào xếp lương theo cùng một thang nhiều bậc, dẫn đến việc bố trí chưa sát với chức vụ và năng lực. Điều này cho thấy cải cách vẫn chưa triệt để với nguyên tắc phân phối theo lao động.

Cải cách năm 1960 tách lương sản xuất, hành chính

Rút kinh nghiệm từ năm 1958, đợt cải cách năm 1960 được thực hiện với quy mô lớn hơn và tính hệ thống cao hơn. Ngày 17/3/1960, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 16 hướng dẫn giải quyết chế độ cho những người làm việc theo hợp đồng, phụ động, tạm tuyển lâu dài. Tiếp đó, Nghị quyết ngày 27/4/1960 được ban hành, đặt mục tiêu cải tiến và tăng lương, quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động, giảm bớt tính bình quân trong trả lương.

Hai nghị định quan trọng trong năm này là Nghị định 24/CP (ngày 1/7/1960) và Nghị định 25/CP (ngày 5/7/1960), lần lượt quy định chế độ lương trong khu vực sản xuất và khu vực hành chính - sự nghiệp. Theo đó, thang bảng lương được thiết kế riêng cho từng khu vực. Cụ thể, khu vực sản xuất có 7 thang lương và 14 bảng lương dành cho công nhân viên; có 4 bảng lương chức vụ cho cán bộ quản lý xí nghiệp và một bảng lương riêng cho nhân viên kỹ thuật. Những người làm việc trong điều kiện khó khăn, hại sức khỏe, hoặc đảm nhiệm chức vụ kỹ thuật cao được hưởng lương cao hơn, trên cơ sở đánh giá khả năng thực tế và mức độ hoàn thành nhiệm vụ.

Đáng chú ý, ngày 11/7/1960, Bộ Nội vụ phối hợp liên bộ ban hành Thông tư số 16 về phụ cấp khu vực, áp dụng từ ngày 1/5/1960 cho cả khu vực sản xuất và hành chính - sự nghiệp. Phụ cấp này được chia làm 6 mức, cộng thêm một mức đặc biệt, dao động từ 6% đến 40% lương cấp bậc, tùy theo điều kiện khí hậu, mức sống và vị trí địa lý vùng công tác.

Tổng hợp kết quả năm 1960 cho thấy mức tăng lương bình quân đạt 12,4% so với năm 1959, với 96,23% cán bộ, công nhân viên được tăng lương, trong đó phần lớn (70%) tăng dưới 10 đồng/người.

Ngoài cải cách kỹ thuật, chế độ lương còn được đồng bộ hóa với bảo hiểm xã hội, phúc lợi và trợ cấp khác. Công tác thống kê - quản lý lao động và tiền lương theo hướng kế hoạch hóa được triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương.

Bước đi quan trọng hình thành chế độ lương theo kinh tế tiền tệ

Trước khi triển khai cải cách quy mô lớn, từ năm 1954-1956, Bộ Nội vụ và các bộ liên quan đã chuẩn bị về mặt kỹ thuật. Nhiều biểu lương mới được xây dựng, trong đó nổi bật là biểu cấp phí 17 bậc thay cho hệ 25 và 12 bậc trước đó. Đồng thời, các chế độ phụ cấp khu vực, phụ cấp làm thêm, sinh hoạt phí cho người đi học, và mức lương tối thiểu cho cán bộ công tác nước ngoài cũng được điều chỉnh, tạo nền tảng cho sự đồng bộ sau này.

Từ năm 1955, chế độ cấp phát hiện vật bắt đầu bị xóa bỏ. Các văn bản liên bộ quy định ngừng cấp hiện vật, thay bằng lương bằng tiền và trợ cấp. Đây là bước đi quan trọng để hình thành một chế độ lương minh bạch, phù hợp với nền kinh tế tiền tệ và nhu cầu tiêu dùng đa dạng.

Cải cách tiền lương giai đoạn 1957-1960 được đánh giá là một bước chuyển quan trọng từ cơ chế bao cấp, cào bằng sang từng bước thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Đời sống cán bộ, công nhân viên được cải thiện, số người phải nhận trợ cấp hàng năm giảm mạnh. Đặc biệt, những đối tượng công tác tại vùng cao, biên giới, nơi khó khăn được hưởng phụ cấp phù hợp hơn.

Việc phân loại tổ chức theo ngành và cấp; phân loại viên chức theo vị trí công tác giúp cán bộ hiểu rõ vai trò của mình, từ đó chuyên tâm nâng cao nghiệp vụ. Riêng đối với giáo viên và cán bộ y tế, việc tính thâm niên có tác dụng giữ chân người giỏi, tạo tính ổn định trong ngành.

Tuy nhiên, hệ thống lương mới vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của cơ chế cũ. Việc phân loại cán bộ còn thiếu tiêu chuẩn cụ thể giữa các ngạch như chuyên viên, cán sự, nhân viên. Phần lớn các trường hợp vẫn là chuyển ngang từ bậc cũ sang bậc mới mà chưa đánh giá lại năng lực. Vì vậy, tính bình quân vẫn tồn tại ở mức độ nhất định, chưa thể hiện đầy đủ nguyên tắc "ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít".

 
 
 
logo
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN

GPĐKKD: 0103884103 do sở KH & ĐT TP Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Địa chỉ: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season,  47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

MIỀN BẮC

Địa chỉ Showroom: D11-47 KĐT Geleximco Lê Trọng Tấn, Hà Đông, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

MIỀN NAM

Địa chỉ VPGD: 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn