Những lời quở trách của vua Minh Mệnh, sự phẫn nộ của vua Thiệu Trị trước sự chậm trễ của bộ Hộ, hay việc khẩn cấp cứu nạn dân bão lụt... của các vua Nguyễn đều xuất phát từ một mệnh lệnh tối cao: tính mạng và đời sống của người dân là trên hết.
                                        |              
|                   Huế trong trận lũ vừa qua, sáng 28/10. Ảnh: Quốc Anh.  |              
Những ngày qua, cả nước hướng về miền Trung oằn mình trong lũ lụt. Cảnh tượng ấy gợi nhớ những trang tư liệu trong Mộc bản Triều Nguyễn, đặc biệt là bộ Đại Nam thực lục ghi lại tinh thần trách nhiệm, thái độ và hành động quyết liệt của các vua Nguyễn trong việc cứu giúp nạn dân vùng thiên tai, bão lụt.
Lo cho dân đến mất ăn, mất ngủ
Năm Minh Mệnh thứ 8 (1827), khi Bắc Thành (từ Ninh Bình trở ra Bắc) vỡ đê, “cửa nhà ruộng nương chìm ngập nhiều, cũng có người chết đuối”, nhà vua bàng hoàng, xót xa: “Vừa rồi chợt tiếp tờ sớ Bắc Thành báo tin vỡ đê, lòng sợ tay run, cơ hồ không phê bảo được”. Vua than rằng: “Nay lại bị nạn nước lụt thì dân ta chịu sao nổi”, “khiến ta lại thêm nóng ruột” khi chưa biết rõ tình hình.
Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), Nghệ An gặp bão khủng khiếp, đại thần Vũ Xuân Cẩn tâu “chưa từng thấy có lần nào quá hại như vậy”. Vua nói với các quan rằng vì lo cho dân mà “thường ăn, ngủ không yên”. Khi cơn bão lan tới Kinh sư, ngài “bí mật cầu đảo”, tự nhận lỗi: “Trẫm bạc đức, không đón được sự vui hòa, lại không có chính sách tốt để cứu tai nạn, thật lo sợ lắm!”. Tương tự, năm Tự Đức thứ 9 (1856), khi Bắc Kỳ lụt lớn, dân “ở trên nóc nhà”, vua “thương xót khôn xiết”.
Trong cứu trợ thiên tai, tốc độ là sống còn. Thời Nguyễn, phương tiện nhanh nhất là ngựa trạm. Các vua rất nghiêm khắc với việc chậm trễ. Năm 1827, khi quan Bắc Thành không dùng ngựa trạm để báo lụt, vua Minh Mệnh nổi giận: “Tai nạn của dân có việc gì hơn việc ấy không? Ngựa trạm chỉ đặt không à!”. Ngài lập tức sai lính Thị vệ “chạy ngựa trạm đi hỏi” để nắm tình hình.
Năm 1842, sau khi nhận sớ báo Nghệ An bị bão, vua Thiệu Trị lệnh “cho ngựa chạy phát đi, gấp làm việc chẩn tuất”. Nhưng quan bộ Hộ lại chậm trễ, lại giao việc cho thuộc viên, viết sai nhiều chỗ. Nhà vua tức giận, “tự tay phê rõ, cải chính, sai làm” bản dụ cứu trợ, cho “chạy ngựa phát đi” trong đêm.
Sau đó, ngài ban dụ dài quở trách: “Cứu vớt nạn dân là việc thế nào? Bộ ấy giữ chức hộ chính mà lại coi thường bỏ nhãng, thì chức trách ở đâu?”. Nhà vua ra lệnh: khi có việc trọng đại, quan “phải tự tay viết nghĩ dụ dâng trình”, dù “đến đêm việc chưa xong cũng phải lưu lại để ứng trực”.
                                        |              
|                   Bản dập Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 135, mặt khắc 26, ghi chép việc vua Minh Mệnh ra dụ kêu gọi giúp dân Bắc Kỳ bị bão lụt năm 1834. Nguồn: TTLTQGIV.  |              
Cấp phát, khôi phục sản xuất sau thiên tai
Dưới triều Nguyễn, các khoản cứu trợ được quy định chặt chẽ. Năm 1827, vua Minh Mệnh chỉ dụ: “Người chết đuối cấp 3 quan tiền; người đói mà rất nghèo cấp 2 quan tiền, 1 phương gạo; người nghèo vừa cấp 1 quan tiền, 1 phương gạo”. Đặc biệt, nhà vua cho áp dụng ngay lệ này cả ở Sơn Nam, Sơn Tây dù các tỉnh chưa tâu báo. Ngài lo rằng “nếu đợi sớ đến rồi mới xuống chỉ thì dân chìm đắm đói khát há chẳng mất công chờ đợi ư?”.
Năm 1842, khi Kinh sư bị bão, nhà vua “phát tiền, gạo, vải trắng” và sai 12 người thuộc Cơ mật viện và Thị vệ đem đi chẩn tuất. Năm 1856, lính tráng bị nạn cũng được “chiếu từng hạng cấp chẩn”.
Các vua Nguyễn coi việc khắc phục hậu quả sau bão lụt là nhiệm vụ trọng tâm. Năm 1827, Minh Mệnh chỉ đạo: “Đê điều có chỗ nên sửa thì sửa... thóc giống chỗ nào nên cấp thì cấp”.
Năm 1856, trước nạn nước lụt ở Bắc Kỳ, vua Tự Đức lệnh: “Chỗ nào đồng ruộng hơi cao thì sức cho dân cấy dặm, cấy nối; ngô đậu khoai củ thì sức dân trồng trọt để sớm khởi sắc”. Đặc biệt, nhà vua coi đê điều là sinh mạng của nông nghiệp, nên đã chỉ đạo các quan tỉnh “thân hành đi khám” các đê bị vỡ.
                                        |              
|                   Bản dập Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ tứ kỷ, quyển 15 ghi chép việc vua Tự Đức sai các tỉnh Hà Nội, Nam Định, Bắc Ninh, Hưng Yên giúp đỡ người dân vùng bị nạn vỡ đê, ngập lụt, năm 1856. Nguồn: TTLTQGIV.  |              
Ngoài cứu tế, triều Nguyễn còn có chính sách miễn, giảm, hoãn thuế và khuyến khích tinh thần “giúp nhau vượt khó”. Sau trận lụt Bắc Kỳ năm 1834, Minh Mệnh ra dụ kêu gọi “giàu nghèo tương trợ, xóm giềng giúp nhau”, ca ngợi những “nghĩa dân” tự nguyện “đem của giúp cho người thiếu”, thưởng bằng biển biểu dương, áo mũ, miễn thuế, miễn dịch. Sau đó, vua mở cuộc vận động quyên góp chính thức, kêu gọi “nhân dân Nam Kỳ” - “vốn có tiếng là ưa làm việc nghĩa” - quyên góp tiền, thóc, gạo để cứu giúp miền Bắc, và hứa “đợi thưởng” cho những người đóng góp.
Nhìn lại lịch sử, có thể thấy dù ở thời đại nào, sự quan tâm của Nhà nước đối với dân khi gặp thiên tai là nhất quán, là sự kế thừa của một truyền thống yêu nước, thương dân. Từ những hành động khẩn cấp của vua Minh Mệnh, sự phẫn nộ của Thiệu Trị trước sự chậm trễ, đến chính sách khôi phục sản xuất của Tự Đức - tất cả đều thể hiện truyền thống yêu nước, thương dân, lấy dân làm gốc.
Tóm lại, những tư liệu quý trong Mộc bản Triều Nguyễn ghi chép việc cứu giúp nạn dân vùng bão lụt không chỉ phản ánh lịch sử quản trị đất nước thời xưa, mà còn cho thấy tinh thần trách nhiệm của người cầm quyền trước nỗi khổ của dân trong thiên tai, hoạn nạn.
Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức - Znews
Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức - Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: books@znews.vn. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.
Trân trọng.
        
    
                 
                 
                 














