Nhảy đến nội dung
 

Những trận bão lũ khủng khiếp - Kỳ 5: Miền Bắc ngập chìm vì trận 'đại hồng thủy' 1971

Trận bão lụt năm 1971 được đánh giá là lớn nhất trong vòng 250 năm qua ở miền Bắc. Cơ quan Quản trị hải dương và khí tượng Mỹ xếp trận "đại hồng thủy 1971" này ở Việt Nam là một trong những thảm họa thiên tai lớn nhất thế kỷ 20.

Ký ức kinh hoàng

Ông Chu Hồng Thao - 80 tuổi ở thôn Vân Nga, xã Hồng Vân, Hà Nội, huyện Thường Tín trước đây - đẩy xe rùa chở cỏ lên đê. Nhà ông Thao ở sát con đê Hữu Hồng, cách bãi tắm trong chuyện Chử Đồng Tử gặp Tiên Dung dăm trăm mét.

Ông Thao kể, 54 năm trước (tháng 8-1971), cả làng Vân Nga dựng lều trên mặt đê này tránh lũ. Lũ sông Hồng lúc ấy chỉ còn cách mặt đê hơn một gang tay. Thanh niên trai tráng trong vùng vào chiến trường, ở làng chỉ toàn người già, trẻ em. Đội dân quân toàn nữ lưng đeo khẩu CKC, vai kẽo kẹt cái đòn gánh đất lên đê.

Ông Thao ngày ấy là nhân viên một đơn vị đảm bảo giao thông thuộc Bộ Giao thông vận tải. Ông vừa được điều động từ vùng Quảng Bình trở ra làm điều tiết giao thông ở Phú Thọ. Vừa nghỉ phép về quê được vài ngày thì lũ về, ông nhận lệnh lên cầu Phùng (Sơn Tây) và Việt Trì (Phú Thọ) nhận nhiệm vụ.

Ông Thao là một trong những người chứng kiến nhiều cảnh tượng khủng khiếp nhất của trận "đại hồng thủy" năm ấy từ vùng Thường Tín, Hà Nội, Sơn Tây đến Việt Trì. Nghe tin chính quyền phải đưa tàu hỏa 300 tấn để chặn cây cầu có nguy cơ bị lũ cuốn ở Bắc Giang những ngày qua, ông Thao nổi da gà nhớ lại cảnh đoàn tàu chở đá hộc đỗ trên cầu Long Biên năm 1971 để phòng lũ cuốn.

Ở quê nhà Thường Tín, mấy ngày nghỉ phép hiếm hoi của ông Thao là những ngày cùng dân quân, dân làng gánh đất đắp vào những đoạn xung yếu. Mấy ngày lũ lên cao quá, cả xã được lệnh bỏ nhà, sơ tán lên đê. "Chưa bao giờ thấy nước sông Hồng dâng cao như thế. Chúng tôi đứng trên đê, thò chân xuống khoắng nước" - ông Thao kể.

Lũ lên quá cao, dân làng Thường Tín bỏ lại nhà cửa, mang gạo, muối, đồ đạc lên đê lánh nạn. Anh công nhân giao thông ngày ấy bọc kỹ cái đèn pin, gói thêm mấy bộ quần áo vào ba lô con cóc nhận nhiệm vụ ở cầu Phùng (Đan Phượng, Hà Tây cũ).

Ký ức về những con xoáy nước khủng khiếp ở sông Hồng trở về quay cuồng trong trí nhớ người đàn ông này. Nước sông Hồng quá cao, người ta phải mở đập để nước tràn qua sông Đáy. Cả vùng ở Hà Tây, Hà Đông, Hà Nam (cũ) nước tràn đê, ruộng vườn, nhà cửa ngập cả. Dân dỡ cả mái nhà mang lên đê dựng lán để lánh nạn.

Tin vỡ đê liên tiếp dội về qua radio. Mạn Lâm Thao, Vĩnh Tường (tỉnh Vĩnh Phú lúc bấy giờ) vỡ trước, rồi tin vỡ đê ở Gia Lâm và cả đê bối nơi quê nhà ông Thao cũng vỡ.

Nỗi ám ảnh không thể nào quên của ông là những tiếng kêu cứu trong đêm. Ngày được điều động rời cầu Phùng lên Việt Trì, ông Thao đến cầu Việt Trì phải dừng lại vì nước lũ. Ở trong bờ nhìn ra mênh mông nước, cơ man nào là gỗ, cây rừng, nhà cửa... lẫn với bọt nước. 

Nước sông ào ào đập vào mố cầu, dòng nước kinh hoàng cuốn cả những căn nhà gỗ mái lá trồi sụt giữa dòng. Nhiều ngôi nhà vẫn còn người trên nóc chới với kêu cứu.

Thiệt hại nặng nề từ trận lụt được ví là đại hồng thủy năm 1971

Cơ quan Tình báo Mỹ (CIA) có báo cáo ngày 8-9-1971, ảnh chụp vệ tinh cho thấy vùng Hà Nội, Phủ Lý, Nam Định, Hưng Yên "ngập sâu trong nước đỏ phù sa". Cơ quan này cũng ước tính "thiệt hại vượt xa trận lũ 1945 và ngang với mức của sông Dương Tử (Trung Quốc) năm 1954".

Sau này giới nghiên cứu gọi trận lũ lịch sử năm 1971 ở Bắc Bộ là trận "đại hồng thủy 1971". Theo các tài liệu của Tổng cục Khí tượng thủy văn và Bộ Thủy lợi (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), năm đó khu vực trung du và Đồng bằng Bắc Bộ ghi nhận lượng mưa lớn chưa từng có - từ 500 đến hơn 1.000mm chỉ trong vài ngày.

Như ông Thao kể, từ ngày ông nghỉ phép về quê cho đến khi lên đường nhận nhiệm vụ là những ngày mưa sầm sập tối mịt đất trời.

Nhắc nhớ thảm họa, bà Lê Bích Thủy - Trưởng Phòng quản lý đê điều và phòng chống thiên tai Viện Quy hoạch thủy lợi - cho biết lần cuối cùng phải mở cửa phân lũ sông Hồng vào sông Đáy, sông Bùi là trận lụt lịch sử năm 1971.

Vùng nội đô Hà Nội có độ cao trung bình khoảng 9m so mực nước biển. Mức báo động 3 trên sông Hồng đoạn qua Long Biên là 13,4m. Mực nước cao nhất ghi nhận được từ trước tới nay ở Long Biên là trận "đại hồng thủy" năm 1971 lên tới 14,13m.

Đê hữu Hồng (đoạn Thanh Trì - Phú Xuyên - Chương Mỹ) thời điểm ấy chỉ thiết kế chịu được tới 13,6-13,8m.

Năm 1971, lũ sông Hồng lên cao hơn 14m, hơn tám ngày mới rút vượt quá khả năng chịu tải của đê. Ở Bắc Bộ năm nào cũng có lũ lụt, nhưng vỡ đê mới thực sự là thảm họa.

Tại Cống Thôn, ngôi làng bên kia sông Đuống (Gia Lâm, Hà Nội cũ), người cao tuổi trong làng không thể nào quên tiếng la hét, tiếng nước ào ào đổ vào làng lúc rạng sáng. Người may mắn bế con chạy lên đê, người không may bị lũ cuốn khi đang say giấc.

Bà Ngô Thị Lịch, người làng Cống Thôn, xúc động kể lại ngày ấy bà chỉ nghe tiếng la "Vỡ đê rồi! Vỡ đê rồi!" là cắp hai con chạy lên đê. Bà may mắn không bị nước cuốn, sáng hôm sau đứng trên đê nhìn lại làng mạc, cánh đồng mênh mông nước.

Một bên là sông Đuống nước chảy ầm ầm, nhà cửa ở đâu bị cuốn vào cầu Đuống gãy răng rắc. Bên kia là làng mạc, chỉ còn thấy lúp xúp ngọn cây nhô lên giữa biển nước đỏ...

Đối phó với trận "đại hồng thủy" này, chính quyền ngày ấy dùng sà lan chở rọ đá đến đoạn đê vỡ rồi đánh chìm để vá đê. 

Báo cáo của Bộ Thủy lợi năm 1971 ghi lại: cơ quan này đã huy động hàng trăm sà lan, tàu kéo chở đất đá để cứu đê. 

Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử ghi lại việc đánh chìm cả sà lan chở rọ đá cứu đê. Riêng đoạn đê Thanh Trì (Tứ Hiệp, Thanh Trì) phải mất 11 chiếc sà lan mới tạm ngăn được dòng nước làm đê tiếp tục bị vỡ.

Hàng triệu gia đình phải sơ tán. Các vùng trũng như Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Hưng Yên gần như biến mất dưới lớp nước đỏ phù sa. Cơ quan Quản trị hải dương và khí tượng Mỹ xếp trận "đại hồng thủy" 1971 ở Việt Nam chỉ đứng sau trận lụt năm 1931 trên sông Dương Tử, Trung Quốc.

Theo bà Lê Bích Thủy, từ năm 1971 đến nay chưa ghi nhận trận lũ nào trên sông Hồng có mức tàn phá khủng khiếp như vậy. Cống Nghiêm Mạc - nơi điều tiết phân lũ sông Hồng sang sông Đáy, sông Bùi trước đây - đã bị lấp vì vùng Hà Tây cũ đã không còn là vùng phân lũ của Hà Nội trong quy hoạch.

Tuy nhiên, theo bà Thủy, ứng phó với biến đổi khí hậu không thể chủ quan. Trong đó, khi quy hoạch đô thị của Hà Nội hai bên sông Hồng, cơ quan chức năng phải tính toán kỹ đến hành lang thoát lũ, vùng phân lũ... để ứng phó với thiên tai, tránh thảm họa như trận "đại hồng thủy" 1971.

****************

>> Kỳ tới: Hậu Lộc - vùng đất nhiều giỗ chung vì bão biển

Đây là vùng đất có nhiều ngày giỗ chung vì bão biển, như giỗ 344 ngư dân năm 1931, giỗ hơn 50 ngư dân năm 1996, giỗ 9 ngư dân năm 2010...

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: info@daisan.vn

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn