Nhảy đến nội dung
 

Hậu khoa cử: Nam tính và thẩm mỹ hiện đại ở Việt Nam thời thuộc địa

Giai đoạn 1920-1930, khi trật tự khoa cử ngàn năm sụp đổ, nền văn hóa mới dựa trên quốc ngữ bắt đầu định hình, các nhà văn hậu khoa cử đã hình thành một phong cách văn học khác biệt.

Công trình nghiên cứu Hậu khoa cử: Nam tính và thẩm mỹ hiện đại ở Việt Nam thời thuộc địa mở ra một góc nhìn về giai đoạn 1920-1930. Đây là thời điểm đánh dấu sự chuyển dịch toàn diện: từ hệ thống giáo dục Nho học sang trường Pháp - Việt, từ văn chương đồng giới nam quyền sang văn chương hướng đến đời sống thường nhật, và quan trọng hơn cả, từ một thế giới chữ nghĩa thuần nam sang một không gian in ấn ngày càng có sự hiện diện của phụ nữ.

Mẫu hình “nam tính hậu khoa cử”

Ở phần Dẫn nhập, tác giả Ben Tran gợi lại hình ảnh Văn Miếu - biểu tượng của nền tri thức Nho học - để đối chiếu với bài diễn thuyết của Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut năm 1919, khi ông kêu gọi người Việt Nam “từ bỏ hệ thống tri thức Nho giáo đã có bề dày nghìn năm và đẩy Văn Miếu về quá vãng”.

Bài diễn văn này không chỉ là lời tuyên bố chấm dứt khoa cử mà còn mở ra thời kỳ hậu khoa cử - nơi thế hệ trí thức mới buộc phải thích ứng với mô hình giáo dục và văn hóa do Pháp áp đặt. Sự “xói mòn địa hạt riêng biệt thuần nam của chế độ quan lại” đồng nghĩa với việc phụ nữ bắt đầu được tiếp cận giáo dục và con chữ, từ đó phá vỡ cấu trúc giới vốn thống trị trong trường tri thức và văn chương.

nam tinh,  tham my hien dai,  hau thuoc dia,  Ben Tran,  chu quoc ngu anh 1

Cuốn sách "Hậu khoa cử: Nam tính và thẩm mỹ hiện đại ở Việt Nam thời thuộc địa". Ảnh: O.P.

Từ sau Đệ nhất thế chiến, chữ Quốc ngữ thay thế chữ Hán và chữ Nôm, trở thành ngôn ngữ hàng đầu của văn hóa in ấn. Quá trình này dẫn đến “sự gia tăng lượng người biết chữ trong giới nữ - những người vốn không hề có mặt trong bộ máy quan lại”.

Báo chí, tạp chí, nhà in mọc lên dồn dập, và nữ giới xuất hiện cả trong tư cách độc giả lẫn đối tượng thảo luận. Như Ben Tran chỉ ra, văn hóa in ấn bằng Quốc ngữ không chỉ củng cố ý thức dân tộc chống thực dân, mà còn “quay trở lại với bản nghĩa của Quốc ngữ: ‘ngôn ngữ của một quốc gia’”. Như vậy, sự hình thành của văn học quốc ngữ hiện đại gắn liền với một “sự nữ hóa” trong đời sống chữ nghĩa.

nam tinh,  tham my hien dai,  hau thuoc dia,  Ben Tran,  chu quoc ngu anh 2

Tranh vẽ chân dung Thạch Lam. Ảnh: Báo Hà Nội Mới.

Trong không gian mới ấy, các nhà văn hậu khoa cử - từ Tam Lang, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng đến Nhất Linh, Khái Hưng, Nguyễn Công Hoan - đã hình thành một phong cách văn học khác biệt. Ben Tran không phân họ thành hai phe lãng mạn và hiện thực như lối đọc truyền thống, mà quy tụ họ dưới cùng một mẫu hình: “nam tính hậu khoa cử”.

Điểm chung của họ là sự bất an, mơ hồ và chông chênh khi vừa bị tước bỏ đặc quyền của giới quan lại, vừa phải tìm cách khẳng định mình trong trật tự thuộc địa mới. Văn chương trở thành phương tiện để họ phơi bày sự lạc lõng, đồng thời kiến tạo một thẩm mỹ hiện đại dựa trên đời thường.

Tam Lang với Tôi kéo xe và Thạch Lam với Hà Nội ban đêm là hai ví dụ điển hình cho phóng sự mang tính “dân tộc chí bằng trải nghiệm cá nhân”. Ở đó, người viết quan sát đời sống bình dân - từ những phu xe đến gái mại dâm - và phản ánh hiện thực bằng cái nhìn vừa khách quan vừa chủ quan. Việc lựa chọn nhân vật nữ mại dâm làm lăng kính quan sát không chỉ cho thấy sự thay đổi đề tài văn chương, mà còn hé lộ một nam tính đầy bất an: những trí thức nam Việt Nam, khi so sánh với đàn ông phương Tây và phụ nữ hiện đại, lại cảm thấy mình kém hiện đại hơn cả.

nam tinh,  tham my hien dai,  hau thuoc dia,  Ben Tran,  chu quoc ngu anh 3

Tranh vẽ ông Phán mọc sừng trong tiểu thuyết Số đỏ. Tranh của họa sĩ Thành Phong.

Nếu phóng sự đưa cái tôi quan sát trực tiếp vào văn chương, thì Vũ Trọng Phụng lại đẩy chủ nghĩa hiện thực đến mức cực đoan trong Số đỏ, Làm đĩ, Cơm thầy cơm cô. Bằng cách miêu tả trần trụi đời sống tình dục và những thói đời dung tục, ông đã “chẩn đoán một cách chính xác và sát thực những dịch bệnh trong xã hội thuộc địa Việt Nam”. Vũ Trọng Phụng kết hợp phóng sự với tiểu thuyết, phá vỡ ranh giới giữa hư cấu và phi hư cấu, qua đó tạo nên một mỹ học đời thường mới. Tuy phụ nữ vẫn chỉ xuất hiện như đối tượng quan sát, nhưng chính việc viết về đời sống của họ đã cho thấy văn học Việt Nam đang rời xa sự cao nhã, tiến gần đến hiện thực hiện đại.

Trong khi đó, Nhất Linh và Tự Lực văn đoàn, tuy thường bị coi là lãng mạn, lại được Ben Tran đọc như những nhà tiểu thuyết xã hội học. Với Đoạn tuyệt, Nhất Linh đã dùng “các công cụ phân tích của xã hội học để khảo sát những quy tắc giới và quy tắc xã hội của xã hội Nho giáo”. Nữ nhân vật như Nguyễn Thị Loan trở thành biểu tượng cho “chị em gái mới”, mang ý nghĩa dân tộc và cách mạng.

Dù Vũ Trọng Phụng và Nhất Linh công kích nhau, cả hai đều chung một mục tiêu: phơi mở những thực hành đời thường, từ tình dục đến hôn nhân, như những điểm then chốt của xã hội thuộc địa.

Sự hiện diện của nữ giới trong các tác phẩm

Một đóng góp đặc biệt của Ben Tran là chỉ ra sự tham gia ngày càng rõ của phụ nữ trong cấu trúc văn chương hậu khoa cử. Dù số lượng tác giả nữ ít ỏi, nhưng sự hiện diện của họ như độc giả và nhân vật đã khiến các nhà văn nam phải thay đổi cách viết. Chẳng hạn, Nửa chừng xuân của Khái Hưng được phân tích qua nhân vật Mai với những hình thức tự xưng đầy phức tạp. Điều đó cho thấy quá trình chuyển đổi từ chủ nghĩa tập thể sang chủ nghĩa cá nhân vẫn chưa hoàn tất, và trải nghiệm của phụ nữ hiện đại mang nhiều vênh lệch so với nam giới.

Trong bối cảnh văn hóa in ấn nở rộ, “các trí thức hậu khoa cử không chỉ viết cho độc giả nữ (và đôi khi lén lút thế chỗ của độc giả nữ), mà họ còn thiết lập vốn văn hóa và vốn tri thức của mình thông qua việc trình hiện phụ nữ”. Họ mô tả gái bán dâm, bệnh nhân nữ, hay những cô gái tân thời thách thức khuôn phép, qua đó định hình tính hiện đại của văn học Việt Nam. Như Ben Tran nhận định, thẩm mỹ hiện đại ở Việt Nam “được ghi dấu từ sự trình hiện phụ nữ của các trí thức hậu khoa cử”.

nam tinh,  tham my hien dai,  hau thuoc dia,  Ben Tran,  chu quoc ngu anh 4

Một trang minh họa trong tiểu thuyết Số đỏ. Ảnh: ĐA.

Từ những năm 1920, phụ nữ đã bắt đầu trở thành một đối tượng trung tâm của báo chí và tiểu thuyết. Hoàng Ngọc Hiến từng hồi tưởng rằng “giá sách quốc ngữ thuộc về mẹ và chị tôi”, và chính từ đó ông hình thành tình yêu tiếng Việt. Lời kể này cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa nữ tính và văn học quốc ngữ: phụ nữ không chỉ đọc, mà còn trở thành cánh cửa để thế hệ trí thức trẻ đến với văn học. Sự nữ hóa của độc giả là một động lực quan trọng thúc đẩy sự hiện đại hóa văn chương.

Điểm chung trong phong cách của các nhà văn hậu khoa cử là sự kết hợp giữa khát vọng phê bình xã hội với nỗi bất an về căn tính. Họ vừa phơi bày đời thường, vừa nỗ lực kiến tạo một nền văn học dân tộc mới. Trong quá trình đó, phụ nữ hiện diện như một “tấm gương” để nam giới soi chiếu chính mình: càng viết về phụ nữ, họ càng phơi bày sự bất ổn của nam tính thuộc địa. Thế nhưng chính sự bất ổn ấy đã làm nảy sinh một thẩm mỹ hiện đại, khác biệt với cả văn học Nho học truyền thống lẫn mô hình châu Âu.

Tóm lại, giai đoạn 1920-1930 chứng kiến một loạt biến đổi căn bản: từ văn hóa in ấn quốc ngữ, báo chí bùng nổ, đến sự nữ hóa của độc giả và sự ra đời của thẩm mỹ hiện đại Việt Nam. Các cây bút hậu khoa cử - với tất cả sự khác biệt về phương pháp - đều chia sẻ một dự án chung: viết về đời thường, viết cho và viết về phụ nữ, qua đó vừa phản ánh xã hội thuộc địa, vừa kiến tạo một căn tính văn học dân tộc. Trong tiến trình ấy, cơ hội để phụ nữ gia nhập thế giới chữ nghĩa được mở ra, và chính sự hiện diện của họ đã định hình diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

(*) Bài viết sử dụng hình ảnh minh họa của Saigoneer.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức - Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức - Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: books@znews.vn. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: info@daisan.vn

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn