Hạt gạo Việt Nam lần thứ 3 được trao giải "ngon nhất thế giới", không dừng lại ở đó sản phẩm cũng đang chuyển mình theo hướng xanh với diện tích và số lượng ngày càng nhiều.
Trên 70.000 tấn "Gạo Việt xanh, phát thải thấp"
Tháng 10 vừa qua, gạo Aan được Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) trao chứng nhận sử dụng nhãn hiệu "Gạo Việt xanh - phát thải thấp". Đây là sự khẳng định cam kết mạnh mẽ của Aan trong phát triển sản xuất bền vững và giảm phát thải khí nhà kính, đánh dấu những thành công ban đầu trong việc thực hiện Đề án "Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng ĐBSCL đến 2030". Để được cấp quyền sử dụng nhãn hiệu, các doanh nghiệp và hợp tác xã phải đảm bảo minh bạch nguồn gốc sản xuất, quy trình canh tác… Hiện nay, sản phẩm gạo Aan cũng đang dán tem Eco-Friendly trên các bao bì nhằm khẳng định cam kết trong phát triển bền vững và sản xuất thân thiện với môi trường.
Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) cho biết, tính đến cuối tháng 11.2025, đơn vị này đã cấp chứng nhận "Gạo Việt xanh - phát thải thấp" cho trên 70.000 tấn. Sản phẩm được "đóng dấu" gạo xanh đã tạo lợi thế cạnh tranh vượt trội trên thị trường xuất khẩu.
Đây là kết quả sau 2 năm triển khai thí điểm thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp (Đề án). Báo cáo về kết quả, ông Lê Thanh Tùng, Phó chủ tịch VIETRISA, thông tin: Tính đến thời điểm kết thúc vụ hè thu 2025; Đề án có 354.839 ha tham gia, vượt 197% so với kế hoạch đề ra. Và 8 doanh nghiệp tham gia với trên 70.000 tấn gạo được cấp chứng nhận "Gạo Việt xanh, phát thải thấp".
Về hiệu quả kinh tế, nông dân tham gia mô hình giảm chi phí sản xuất từ 1,7 - 4,9 triệu đồng/ha so với sản xuất ngoài mô hình. Nếu quy ra giá thành sản xuất giảm tương đương từ 326 - 1.052 đồng/kg lúa tươi; lượng giống gieo sạ giảm 50 - 65%, tương đương tiết kiệm 70 - 130 kg/ha. Bên cạnh đó, lượng phân đạm trung bình giảm tới 31,3%; cắt giảm lượng nước tưới, đạt chuẩn rút nước ít nhất 2 - 3 lần, giảm 1 - 3 lần phun thuốc bảo vệ thực vật. Dù giảm giống và vật tư đầu vào nhưng năng suất lại tăng từ 1,4 - 15,9 tạ/ha, tương đương mức trung bình 3,2 - 22,1% so với canh tác truyền thống. Đặc biệt, lượng giảm phát thải của mô hình đã đạt 3,7 tấn CO2 tương đương/ha/vụ. Con số này cho thấy tiềm năng lớn để mở rộng diện tích sản xuất.
Theo PGS-TS Bùi Bá Bổng, Chủ tịch VIETRISA, lượng phát thải khí nhà kính đã được tổ chức quốc tế Regrow kiểm định độc lập. Đây là cơ sở để làm rõ lợi thế của gạo carbon thấp. Các giống được cấp chứng nhận chủ yếu là nhóm chất lượng cao như OM18, Đài Thơm 8, ĐS1, ST25 và các giống lúa Nhật (Hana, Akita, Koshi) do Angimex Kitoku phát triển. "Việc mở rộng sang nhóm giống ngoại nhập cho thấy doanh nghiệp đang nhắm đến phân khúc thị trường cao cấp, đặc biệt là các thị trường đòi hỏi tiêu chuẩn môi trường khắt khe", PGS-TS Bùi Bá Bổng nhận định.
Đề án không chỉ thu hút sự quan tâm của Chính phủ và người dân Việt Nam mà cả cộng đồng quốc tế. Bên cạnh Đề án 1 triệu ha do Chính phủ Việt Nam khởi xướng, các doanh nghiệp tham gia cũng đồng thời là thành viên thực hiện Dự án "Chuyển đổi chuỗi giá trị lúa gạo ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững tại ĐBSCL (TRVC)" do Bộ NN-MT và Tổ chức Phát triển Hà Lan (SNV) thực hiện với sự tài trợ của Chính phủ Úc. Dự án được triển khai từ năm 2023 và đặt mục tiêu đến năm 2027 sẽ thu hút được 200.000 hộ nông dân tham gia trên diện tích 200.000 ha và giảm tối thiểu 200.000 tấn CO₂ tương đương. Công ty TNHH Angimex Kitoku, một doanh nghiệp tham gia Dự án TRVC, khẳng định đây là đòn bẩy giúp tiếp cận nguồn tín dụng xanh từ Ngân hàng MUFG (Nhật Bản), mở ra hướng đi mới về tài chính bền vững cho ngành hàng lúa gạo.
Việt Nam là nguồn cung gạo nhiều, ngon và sạch nhất thế giới
Là người gắn bó cả đời với cây lúa và ngành nông nghiệp Việt Nam, ông Bùi Bá Bổng nhìn nhận: Hạt gạo Việt những năm gần đây đã "bước qua lời nguyền" gạo chất lượng thấp, giá rẻ. Ở một số phân khúc và thời điểm, giá gạo Việt Nam thậm chí còn cao nhất thế giới. Ngoài gạo ST25 đoạt giải gạo ngon nhất thế giới, các giống lúa xuất khẩu chủ lực ở ĐBSCL hiện nay đều là các giống chất lượng cao như OM18, Đài Thơm 8, OM5451... được thị trường ưa chuộng. "Thành tựu đặc biệt của ngành lúa gạo Việt Nam chính là sự chuyển đổi sang chất lượng cao nhưng không làm giảm năng suất mà vẫn giữ vị trí ở top đầu thế giới - đó là nét đặc sắc của lúa gạo Việt Nam", ông Bổng tự hào.
Dù vậy, ông Bổng kỳ vọng, giai đoạn mới, ngành lúa gạo cần tiếp tục đi lên những nấc thang phát triển cao hơn. Đó là những sản phẩm sạch và xanh vì sức khỏe người sản xuất, người tiêu dùng và cả môi trường. Màu xanh của sự thịnh vượng và bền vững.
"Việt Nam đã rất nhạy bén và quyết tâm cao trong việc triển khai thực hiện Đề án phát triển vùng chuyên canh 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở ĐBSCL đến năm 2030. Làm được điều này Việt Nam sẽ là nước tiên phong trên thế giới sản xuất lúa gạo giảm phát thải (low carbon) trên quy mô lớn. Sau 2 năm triển khai thực hiện Đề án, thành công của các mô hình đã lan tỏa và đạt được những kết quả ấn tượng. Đặc biệt, lần đầu tiên Việt Nam và có lẽ trên thế giới có sản phẩm gạo giảm phát thải vào tháng 6.2025. Đây là một dấu ấn rất quan trọng của ngành lúa gạo Việt Nam trong giai đoạn mới", PGS-TS Bùi Bá Bổng.
TS Trần Thu Hà, Giám đốc Dự án TRVC, người song hành cùng Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp, giải thích: TRVC ứng dụng hệ thống theo dõi thực hành nông học tới cấp ô ruộng thông qua ảnh vệ tinh, sử dụng mô hình sinh địa hóa (DNDC) để tính toán lượng phát thải và định lượng các hiệu quả kinh tế - xã hội theo tiêu chuẩn được Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu công nhận. Đây là nền tảng quan trọng để hình thành tín chỉ carbon cho ngành lúa gạo. TRVC được xem là "mô hình lõi" của Đề án 1 triệu ha, tạo ra các liên kết chuỗi điển hình, cung cấp số liệu khoa học và kết quả thực tiễn làm bằng chứng để mở rộng diện tích, kết nối với các nguồn lực trong nước và quốc tế, nâng cao giá trị hạt gạo Việt Nam theo hướng xanh, bền vững, đồng thời tạo ra các nguồn tài chính khí hậu. "Mục tiêu chung của chúng ta là thúc đẩy chuyển đổi sang phương thức canh tác lúa gạo có khả năng chống chịu với khí hậu, phát thải carbon thấp thông qua phát triển chuỗi giá trị bền vững và bao trùm ở khu vực ĐBSCL. Từ đó, giúp cải thiện sinh kế cho các hộ nông dân sản xuất lúa nhỏ lẻ", TS Hà nói.
Tạo giá trị mới cho gạo Việt
Tại Hội thảo "Thúc đẩy mở rộng diện tích sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp hướng đến mục tiêu 1 triệu ha vào năm 2030" cuối tháng 11 vừa rồi, ông Nguyễn Quốc Mạnh, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt và bảo vệ thực vật, khẳng định: "Không lúc nào bằng lúc này, chúng ta hiện có đủ các yếu tố cần thiết để phát triển một ngành hàng là thị trường - kỹ thuật - chính sách và quyết tâm để đưa hạt gạo Việt Nam bước sang một trang mới: xanh hơn, sạch hơn, cạnh tranh hơn. Mỗi đơn vị sẽ trở thành một mắt xích mạnh, góp phần tạo ra một hệ sinh thái triệu héc ta. Nó không chỉ đạt về con số diện tích, mà còn đạt giá trị mới cho nông dân và ngành hàng lúa gạo Việt Nam".
Cục Trồng trọt và bảo vệ thực vật cam kết đồng hành chặt chẽ cùng địa phương, doanh nghiệp, hợp tác xã trên 3 việc trọng tâm: phối hợp giám sát việc thực hiện quy trình đo đạc; hỗ trợ xây dựng và mở rộng mô hình liên kết chuỗi, lấy doanh nghiệp làm hạt nhân, nông dân làm trung tâm; và tạo điều kiện tối đa cho ứng dụng tiến bộ kỹ thuật từ quản lý nước, đất, rơm rạ, số hóa… đến khi nhà nước cho phép trao đổi tín chỉ carbon.
Để đi đến đích, ông Mạnh đề nghị các địa phương đặc biệt là các sở NN-MT cần hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân trong chuỗi liên kết, hướng dẫn đồng bộ áp dụng quy trình sản xuất lúa chất lượng cao, giảm phát thải, và nâng cấp các vùng sản xuất. Các doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị cần chủ động bắt tay liên kết với các hợp tác xã và nông dân, đăng ký tham gia Dự án TRVC và sản xuất theo quy trình giảm phát thải đã ban hành. Đặc biệt cần tận dụng sự hỗ trợ kỹ thuật trong khâu theo dõi và đánh giá về lượng giảm phát thải để đảm bảo độ tin cậy.
VIETRISA cần phối hợp chặt chẽ để giám sát, hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp trong và ngoài Dự án TRVC, đồng thời xem xét chứng nhận "Gạo Việt xanh, phát thải thấp" cho các doanh nghiệp và hợp tác xã được địa phương xác nhận tuân thủ đầy đủ quy trình. Đề nghị Chính phủ Úc và các nhà tài trợ quốc tế khác, xem xét mở rộng vùng Dự án TRVC sang Cần Thơ, Vĩnh Long và Cà Mau, để nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân có cơ hội tham gia nhiều hơn, góp phần thúc đẩy nhanh tiến độ hoàn thành 1 triệu ha vào năm 2030.















