Ẩn dụ tiếng Việt lạ mà quen

Vì sao người Việt thường dùng "ngon, dở" để đánh giá nhiều thứ không phải thức ăn như: vóc dáng, năng lực, vị thế, công cụ, sản phẩm...?
Vì sao đi trên bờ mà vẫn dùng từ "lặn lội" (lặn lội đường xa) hay xin "quá giang" (qua sông)? Trong đời sống có rất nhiều cách nói ẩn dụ hoặc hoán dụ đã trở thành quen thuộc, quen đến mức chúng ta không nghĩ nhiều về nó và không nhận ra nó đặc biệt đến thế nào.
Cuốn sách Tiếng Việt lạ mà quen giải thích những điều này, giúp độc giả nhận ra những cái "lạ" trong cách diễn đạt quen thuộc, để hiểu thêm về tiếng Việt và tâm hồn người Việt mình.
Thao tác của tư duy
Dựa vào nghiên cứu trong sách Metaphors we live by (Ẩn dụ mà chúng ta sống) của Lakoff G. và Johnson M. vào năm 1980, tác giả phân tích rõ hơn về các khái niệm liên quan tới ngôn ngữ học tri nhận.
Con người tương tác với thế giới qua những trải nghiệm cá nhân, từ đó có cách hình dung và diễn giải riêng về thế giới xung quanh, tạo thành một hệ thống ý niệm về thế giới trong tâm trí.
"Ẩn dụ ý niệm là thao tác của tư duy. Chẳng hạn với ẩn dụ "thời gian là tiền bạc", chúng ta dùng hiểu biết về tiền bạc để tri nhận về ý niệm thời gian.
Tiếng Việt hiện đại có rất nhiều ngữ liệu minh chứng cho điều này: Quỹ thời gian không còn nhiều, đừng lãng phí thời gian, tiết kiệm thời giờ, tiêu tốn thời gian... Rõ ràng chúng ta nhận thức thời gian như đồ vật, như tiền bạc nên mới có thể chi tiêu, để dành, phung phí, tiết kiệm, lập quỹ thời gian... Đó là cách chúng ta ý niệm hóa thời gian", tác giả Trịnh Sâm phân tích.
Miền ý thức người Việt
Tác giả chỉ ra trong ngôn ngữ học tri nhận, mảng hiện thực nào gần gũi và quen thuộc với cộng đồng diễn ngôn thì xuất hiện nhiều nhất và có tầm tác động lớn nhất trong suy nghĩ và hành động của họ.
Ví dụ miền ý niệm thực phẩm. Cái ăn là cái thiết yếu đối với con người, là nỗi lo canh cánh của nhiều người Việt qua hàng ngàn năm nay. Do đó miền nguồn thực phẩm đã trở thành xuất phát điểm cho nhiều ẩn dụ tiếng Việt.
Sách đưa một số ví dụ: vóc dáng con người, năng lực, vị thế xã hội, địa thế, công cụ (phương tiện) là thực phẩm.
Cũng vì vậy mà chúng ta thường quy mọi thứ về thang đánh giá ngon/dở: ngủ ngon, ngon mắt, body ngon, chiếc xe ngon, miếng đất ngon, hợp đồng béo bở, chức vụ ngon, ứng xử dở, nói chuyện dở, phim dở...
Ngoài ra theo ông Trịnh Sâm, hầu như tất cả các ý niệm chỉ hoạt động liên quan đến chế biến thực phẩm như: nấu nướng, bếp núc trong tiếng Việt đều có thể sử dụng trong một số lĩnh vực khác.
Có thể kể ra như: lập luận sống sít; cư xử sống sượng; thời cơ chín muồi; xào bài, sách; mì ăn liền; hâm nóng tình yêu; thêm mắm thêm muối cho câu chuyện thêm hấp dẫn; nấu cháo điện thoại; phụ tùng xe bị luộc...