Có gì trong một lọ vaccine? - Báo VnExpress

Vaccine không chỉ chứa các thành phần hoạt tính bảo vệ con người khỏi bệnh tật, còn chứa một lượng nhỏ các chất khác giúp mũi tiêm an toàn, ổn định. Nhiều thành phần trong số này có sẵn trong cơ thể song vẫn được kiểm nghiệm nghiêm ngặt để đảm bảo vô hại với liều lượng hoặc nồng độ được sử dụng trong vaccine.
Rất hiếm người bị dị ứng nghiêm trọng với một thành phần cụ thể. Dù vậy, việc tiêm chủng luôn được thực hiện dưới sự giám sát y tế. Các thành phần chủ yếu của vaccine như sau:
Kháng nguyên
Đây là chất giúp hệ miễn dịch nhận biết tác nhân gây bệnh. Kháng nguyên có thể là một loại virus hoặc vi khuẩn đã bị làm yếu đi, không còn khả năng nhân lên hoặc gây bệnh; hoặc một phần nhỏ của một trong những tác nhân gây bệnh, chỉ dẫn di truyền...
Trước khi sử dụng trên người, kháng nguyên được kiểm tra trong phòng thí nghiệm và trên động vật để đo lường hiệu quả và mức độ an toàn. Sau đó, mũi tiêm được nghiên cứu an toàn trên người. Mỗi giai đoạn nghiên cứu cần đáp ứng tiêu chuẩn nghiêm ngặt, tính an toàn, hiệu quả của mũi tiêm được theo dõi chặt chẽ.
Bên cạnh đó, vaccine sẽ tiếp tục được giám sát sau khi được cấp phép. Nếu phát hiện mối lo ngại về an toàn, mũi tiêm có thể bị thu hồi tạm thời hoặc vĩnh viễn.
Chất bổ trợ
Chất bổ trợ giúp hệ miễn dịch phản ứng mạnh hơn với kháng nguyên, phổ biến là muối nhôm. Muốn nhôm giúp làm chậm quá trình giải phóng kháng nguyên sau khi tiêm, từ đó tăng cường và kéo dài phản ứng miễn dịch.
Lượng nhôm trong vaccine rất nhỏ. Tổng lượng nhôm mà trẻ sơ sinh tiếp xúc thông qua vaccine và chế độ ăn uống đều thấp hơn nhiều so với ngưỡng an toàn.
Vì tá dược được thiết kế để kích thích hệ thống miễn dịch nên vaccine có thể gây ra nhiều phản ứng tại chỗ và toàn thân, ví dụ đỏ, sưng và đau tại chỗ tiêm, sốt, ớn lạnh và đau nhức cơ thể. Mặc dù khó chịu, những phản ứng này không nguy hiểm, cho thấy hệ miễn dịch đang phản ứng.
Khi kết hợp tá dược với kháng nguyên, các chuyên gia thử nghiệm cẩn thận trong phòng thí nghiệm để đảm bảo an toàn trước khi thử nghiệm lâm sàng như một phần của toàn bộ công thức vaccine. Tá dược cũng được chứng minh tính an toàn ở các nghiên cứu lớn và rất nghiêm ngặt.
Chất bảo quản
Một số lọ vaccine đa liều có thêm lượng nhỏ chất bảo quản. Việc này nhằm ngăn vi khuẩn hoặc nấm có hại phát triển sau khi mở nắp. Nếu thiếu chất bảo quản, vaccine nhiễm bẩn có thể gây nhiễm trùng nghiêm trọng cho người được tiêm.
Một ví dụ về chất bảo quản là thiomersal (còn gọi là thimerosal), từng gây lo ngại gây ra bệnh tự kỷ. Tuy nhiên, không có bằng chứng nào cho thấy việc sử dụng thiomersal trong vaccine gây hại cho con người. Nhiều nghiên cứu sau đó đã xác nhận chất này an toàn, nhanh chóng đào thải dù ở cơ thể em bé sơ sinh. Các nghiên cứu khoa học cũng cho thấy không có mối liên hệ nào giữa việc tiêm chủng và chứng rối loạn phổ tự kỷ.
Chất nhũ hóa và chất ổn định
Chất nhũ hóa giúp giữ các thành phần khác trong dung dịch vaccine. Ví dụ polysorbate 80 sử dụng trong nhiều loại thuốc, thực phẩm bổ sung và thực phẩm chức năng, kem.
Chất ổn định cũng thường được sử dụng để bảo vệ các thành phần hoạt tính khỏi tác động của thay đổi nhiệt độ trong quá trình vận chuyển, bảo quản, ngăn các thành phần dính vào thành hộp.
Lượng các chất này trong vaccine rất nhỏ. Như loại ngừa rotavirus RotaTeq chứa 170-860 microgam (mcg) polysorbate 80, trong khi nửa cốc kem chứa 170.000 mcg. Vaccine tiêm chứa hàm lượng chất này thấp hơn nữa. Một số loại khác có thành phần gelatin thịt lợn, sorbitol...
Tương tự tá dược và chất bảo quản, chất nhũ hóa và chất ổn định được đánh giá nghiêm ngặt trong các thử nghiệm lâm sàng như một phần của toàn bộ công thức vaccine. Rất hiếm khi xảy ra phản ứng dị ứng với vaccine chứa gelatin, tỷ lệ khoảng một trên hai triệu liều được tiêm. Do đó, những người bị dị ứng với gelatin nên tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi tiêm.
Dư lượng
Vaccine cũng có thể chứa một lượng nhỏ vật liệu còn sót lại trong quá trình sản xuất. Ví dụ một số vaccine được sản xuất bằng trứng gà, có thể chứa một lượng nhỏ protein trứng. Một số loại kháng sinh đôi khi được sử dụng để giúp ngăn ngừa nhiễm khuẩn trong quá trình sản xuất.
Các chất khác như formaldehyde, được sử dụng để vô hiệu hóa virus hoặc giải độc độc tố vi khuẩn khi đưa vào vaccine. Mặc dù formaldehyde sau đó được pha loãng, nhưng vẫn có thể còn sót lại một lượng nhỏ. Lượng formaldehyde này thấp hơn lượng tự nhiên có trong cơ thể và được coi là an toàn.
Văn Hà (Theo Gavi)