Từ nghèo đói đến cường quốc lương thực - Báo VnExpress Kinh doanh - Báo VnExpress

Tới trước 1986 - thời điểm Đổi mới - số lượng hợp tác xã tăng lên 1.336 lần trong 30 năm, nhưng cơ chế vận hành bộc lộ nhiều bất cập. Công được tính theo giờ làm, không theo hiệu suất, trong khi tài sản của tập thể thì "cha chung không ai khóc". Người nuôi heo khéo hay bỏ mặc, trồng lúa năng suất cao hay thấp... đều được chấm ngang nhau, dẫn đến tình trạng "rong công, phóng điểm", tạo ra lớp "cường hào mới" trong làng. Nông dân dần mất động lực sản xuất trên chính mảnh ruộng của mình.
"Thời điểm ấy, Việt Nam vừa đứng bên bờ vực thẳm, vừa ở tầm cao khát vọng", TS Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông thôn, nhận xét.
Trong bối cảnh đó, đã có những cá nhân dũng cảm tìm cách "phá rào". Khoảng 1966-1967, ông Kim Ngọc - cố Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, tiên phong khoán hộ. Với khoán hộ, ruộng được giao cho nông dân để họ tự chủ sản xuất, thay vì làm việc theo tiếng kẻng của hợp tác xã. Họ cũng được giữ lại phần vượt khoán sau thu hoạch.
Tuy nhiên, chính sách này bị cho là đi ngược chủ trương hợp tác hóa của trung ương, đưa nông nghiệp về con đường "tư hữu", nên bị buộc dừng vào 1968. Ông Kim Ngọc phải tự kiểm điểm.
Vĩnh Phúc không phải nơi duy nhất trong cảnh bế tắc, nông dân "làm mãi không đủ ăn". Cách hơn 160 km, ở Thái Bình, hai thập kỷ sau, ông Trần Mạnh Báo - khi đó là Phó trưởng trại giống lúa Đông Cơ (tiền thân của ThaiBinh Seed) - chứng kiến cảnh 56 ha đất của trại chỉ thu chưa tới 60 tấn thóc. Tức là, năng suất mỗi ha lúa chỉ cho hơn 1 tấn thóc mỗi ha, trong khi nơi đây từng nổi tiếng là "quê hương 5 tấn".
"Cứ một bao phân đạm tính một công, chở 4 bao đổ ở trạm bơm cũng tính 4 công, không ra ruộng sao lúa tốt?", ông Báo nhớ lại.
Nỗi trăn trở "chỉ khi người lao động được hưởng thụ giá trị từ thành quả của họ, năng suất mới tăng", đã thôi thúc ông nghiên cứu một quy trình sản xuất lúa mới. Ba năm miệt mài nghiên cứu, cuối 1987, ông Báo trình lãnh đạo tỉnh đề án "Khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động", cũng với cách thức giao ruộng cho dân. Tương tự chính sách "khoán hộ" của ông Kim Ngọc, nhiều người lo ngại ông Báo sẽ bị kỷ luật, nhưng ông quyết làm tới cùng.
"Có người bảo tôi không cẩn thận sẽ bị vào tù, nhưng là người lính trở về từ chiến trường, tài sản của tôi chỉ có vài bộ quần áo cũ, cùng lắm họ điều mình đi nơi khác. Nhưng đây là con đường phải đi, không làm có tội với dân", ông nói.
Sự quyết liệt của Chủ tịch ThaiBinh Seed khi đó đã thuyết phục được Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình Chu Văn Rỵ. Ông Rỵ gật đầu, kèm lời dặn "cách làm trái với cơ chế đang vận hành, chúng ta có nguy cơ bị kỷ luật, nhưng khoán là việc phải làm".
Sau một năm thực hiện đề án, sản lượng giống lúa của trại Đông Cơ tăng vọt lên 600 tấn, gấp 10 lần trước đó. Cùng thời điểm, sau Đại hội VI (1986) khởi xướng Đổi mới, tháng 4/1988, Nghị quyết 10 (tức Khoán 10) ra đời, công nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, giao đất cho người cày. Trại Đông Cơ trở thành hình mẫu của Thái Bình, mô hình để cả nước học tập.
Trước đó, Chỉ thị 100 (1981) mới khoán đến đội sản xuất (gồm nhiều hộ nông dân), với phương thức "phát canh thu tô". Tức là, hộ nông dân nhận phân, thuốc, giống lúa và nộp tô khi đến vụ.
Tới Khoán 10, kinh tế cá thể, tư nhân được công nhận. Nông dân được tự chủ sản xuất, hưởng thành quả trên mảnh ruộng của mình, đồng thời tự do lưu thông và mở rộng thị trường. Kết quả, sau một năm, Việt Nam từ chỗ phải dùng vàng đổi 200 tấn lương thực cứu đói (1988) đã có gạo dư để xuất khẩu.
Theo ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam, trước năm 1986, Việt Nam mỗi năm phải nhập trên 1,5 triệu tấn gạo để bảo đảm an ninh lương thực. Sau Khoán 10, tình thế đảo ngược, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo, khép lại thời kỳ thiếu đói.
Tuy nhiên giai đoạn đầu, gạo xuất khẩu chủ yếu là phẩm cấp thấp, chưa có thương hiệu. Hệ thống sấy gạo, kho chứa lạc hậu, thất thoát cao. Cơ chế hạn ngạch và hợp đồng tập trung khiến doanh nghiệp thiếu linh hoạt, dễ bị ép giá.
Khoán 10 cứu ngành lúa gạo, mở đường cho rau quả, chăn nuôi, thủy sản bứt phá. Ngay cà phê, khi ấy mới manh nha, cũng bắt đầu vươn ra thế giới. Năm 1981, những chuyến cà phê xuất khẩu đầu tiên sang Liên Xô và Đông Âu theo hình thức trao đổi hàng hóa đã đặt nền móng cho ngành cà phê Việt.
Ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, nhớ lại năm 1983, khi ông mới bước vào ngành đưa rau quả sang Liên Xô, cả nước chưa ai nghĩ tới chuyện xuất khẩu lương thực. Nhưng từ khi Khoán 10 ra đời, mọi thứ đổi thay. Năm 1992, những trái thanh long Việt lần đầu "xuất ngoại", sang Đài Loan, mở ra thời kỳ mới. Từ vài tấn quả ban đầu lên đến hàng nghìn container mỗi năm.
"Chúng ta bắt đầu từ hợp tác xã nhỏ, nhà xưởng vài trăm người. Giờ đã có doanh nghiệp lớn, nhà máy hiện đại, chuỗi cung ứng đi khắp nơi", ông Nguyên nói, thêm rằng thành công có được là nhờ Nhà nước trao quyền cho nông dân và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư.