Giữa tháng 10, tập Trần Dần, thơ của cố thi sĩ được tái bản sau gần 20 năm, gây chú ý với bạn đọc. Đại diện Nhã Nam - đơn vị liên kết in sách - cho biết hơn 1.000 cuốn ra mắt dịp này được đặt hàng.
Ý thức sáng tạo, khao khát đổi mới là tinh thần nổi bật trong hoạt động thi ca của Trần Dần. Năm 1946, ông cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương thành lập nhóm thơ tượng trưng Dạ Đài, soạn bản ''tuyên ngôn tượng trưng'' nhằm cách tân thơ Việt. Hai năm sau, nhà thơ tham gia Vệ quốc quân rồi làm báo ở mặt trận Tây Bắc, cùng sáng lập nhóm văn nghệ quân đội đầu tiên có tên Sông Đà. Thời gian này, ông bắt đầu làm thơ bậc thang và vẽ tranh lập thể. Thơ của ông mang màu sắc riêng nhưng bị cho là chưa phù hợp tinh thần chiến đấu nên không được phổ biến rộng rãi.
Sau năm 1954, Trần Dần tham gia phong trào Nhân văn Giai phẩm, muốn được xuất bản các tác phẩm mang tính cách tân của mình. Tháng 2/1956, ông trở về Hà Nội, liên tục bị phê bình với bài thơ Nhất định thắng, cuối cùng nhận quyết định kỷ luật vào tháng 7/1957.
Dù sự nghiệp vướng nhiều tranh cãi, Trần Dần vẫn là nhà cách tân lớn của thi ca Việt Nam hiện đại. Nhà thơ - nhà báo Dương Kỳ Anh từng nói ấn tượng việc ông có nhiều thể nghiệm, từ cấu trúc, ngắt vần như: ''Đừng để/ chân trời/ gọi mãi/ Đừng để/ khói sương/ mời mọc/ đến hai lần'' đến đặt tiêu đề, mang đến sự khác biệt cho từng bài. Hay cách ông viết câu thơ không tuân theo quy tắc nào: ''tôi có nghèo đâu, trăng sao lủng liểng. mây phơi dằng dặc khắp chân trời. hương hỏa của tôi, kho nào chứa xuể? ê hề vũ trụ sao bay. tôi di lại cho ai giờ? tầng tầng mây, lục địa lục địa của cải''.
Theo nhà văn Dương Tường, thơ Trần Dần ''đầy chuyển động, không bao giờ lặp lại chính mình nhưng vẫn giữ nguyên cốt cách''. Nhà thơ từng nói: ''Phải chôn Thơ Mới'', không phải quên đi mọi thành tựu mà đặt nó vào quá khứ của nền thơ dân tộc. Trong một cuộc trò chuyện với nhà thơ Ngô Minh, ông quan niệm: ''Bắt chước tiền chiến là một loại bệnh. Tôi gọi nó là bệnh đèm đẹp. Giống như người trồng hoa mà mỗi buổi sáng lại đi rưới nước hoa vào những luống hoa. Quen dần trong nếp cũ, sẽ không còn khả năng vạch ra cái mới, cái có ích, tức là mất khả năng khám phá, là chết dần với những cái cũ lặp lại. Loài người phải luôn khám phá sáng tạo. Tự do là tất yếu là một phát kiến lớn''.
Đọc thơ Trần Dần, người ta thường liên hệ với nhà thơ Nga Mayakovsky, đại diện tiêu biểu nhất của thơ vị lai ở thế kỷ 20. Trong bài phân tích của tiến sĩ Nguyễn Văn Phượng, ông chỉ ra vần thơ của hai người luôn sôi nổi, không né tránh diễn đạt những điều trần trụi.
Chê trách người viết lách cẩu thả, Mayakovsky ghi: ''Họ mấp máy môi/ họ dùng ngòi bút/ họ mửa lên/ những trang giấy mịn màng/.../ vớ được chữ nào/ cũng ăn nằm chung chạ''. Cùng chung ý tưởng, Trần Dần viết: ''...đi mãi/ chẳng bao giờ thỏa/ Tôi có mắc nhiều/ tội lỗi/ chẳng bao giờ quá ngu si/ mắc tội: nằm ì.../ tôi có thể mặc thây/ ngàn tiếng chửi tục tằn/ trừ tiếng chửi: -/ 'Sống không sáng tạo!'".
Tuy nhiên, nhà văn Mayakovsky chuộng đề cập trực tiếp như: ''Chúng mày nghe, tao nói thẳng vào mặt/ mặt dày hơn/ mặt lợn sề quái vật/ mặt tròn xoe/ như đĩa món cao lâu'', còn lối diễn đạt của Trần Dần suy tư hơn: ''Tôi đau ở.../mỗi người là một vụ án/ mỗi người/ chôn/ sống - một chân mây''.
Trần Dần từng thừa nhận mình chịu ảnh hưởng của Mayakovsky bởi ''tâm hồn giống nhau''. Dù chung nhiệt huyết đấu tranh cải tạo xã hội, số phận văn học của hai người khác biệt. Sau Cách Mạng tháng Mười Nga, Mayakovsky được xem là cây bút vì công chúng, đến với bạn đọc dễ dàng. Cuộc cách tân thơ của Trần Dần sau năm 1954 chưa diễn ra bao lâu thì gặp tai nạn' Nhân văn Giai phẩm. Ông bị ''treo bút'' ba năm nhưng thực chất 30 năm sau mới xuất hiện.
Ba thập niên lùi lại văn đàn song Trần Dần chưa từng ngừng viết. Trong các chuyến du ngoạn, ông mang theo cuốn ''sổ bụi'' để lưu giữ những vần thơ. Nhiều tác phẩm như tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn (1964), Đêm núm sen (1961), các tập thơ Mùa sạch (1965), Thơ mini (1988-1989) được ông thực hiện trong thời gian này.
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo nhận định thơ cũng như tiểu thuyết sau Nhân văn Giai phẩm của Trần Dần luôn ngồn ngộn chữ, tràn đầy sự sống. Ngôn ngữ của ông luôn biến động, cho thấy sự lao tâm, thổi hồn sự sống vào từng con chữ. Ông quan niệm làm thơ là làm chữ, từ chữ sẽ sinh ra nghĩa.
''Trần Dần không phải một nhà thơ dễ đọc hay nhà thơ quần chúng hóa, dù ông thơ hóa nhiều ngôn ngữ quần chúng'', nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo từng nói. Ông soi rọi, chăm chút những vấn đề của cuộc sống và nghệ thuật, nhìn nhận theo kiểu của mình. Theo ông Nguyễn Trọng Tạo, đôi khi, Trần Dần như kẻ lập dị, một nhân cách cá biệt giữa đời.
Dù đối diện nhiều tranh cãi, bị gián đoạn hoạt động sáng tác một thời gian dài, ông chưa từng mất niềm tin đến một ngày tác phẩm của mình được xuất bản trở lại. Sau khi nhà thơ Trần Dần qua đời, các con của ông tìm thấy một tập bản thảo ghi Trần Dần tự xuất bản, tập thơ Bao giờ em đi lấy chồng mà ông tự trình bày, minh họa cách đó 35 năm.
Tập Trần Dần - thơ xuất bản lần đầu năm 2007, tập hợp những tác phẩm tiêu biểu trong gần nửa thế kỷ âm thầm sáng tác của ông. Tuy nhiên, đó mới chỉ là ''một phần di cảo đã bị vùi sâu dưới sự che phủ của thời gian, giai thoại và những ngộ nhận ngoài thơ''. Nhà thơ Dương Tường từng cho biết: ''Phần lớn tác phẩm của Trần Dần vẫn còn ở trong bóng tối''. Giải Thành tựu trọn đời của Hội Nhà văn Hà Nội cho tập thơ vào năm 2008 như một sự ghi nhận cần có cho những dấu ấn cách tân thơ mà Trần Dần tạo nên.
Dưới bài đăng của fanpage Nhã Nam, độc giả Tuệ Tuệ nói tìm mua ấn phẩm từ khi biết tin cuốn thơ của Trần Dần được in lại, nhưng vẫn chưa đặt được sách. Dịch giả Nguyễn Tuấn Bình - một người yêu thơ Trần Dần - nhận định đây là hiện tượng tất yếu. Anh cho biết các tác phẩm cũ của ông luôn được người đọc săn đón, thậm chí trả giá cao để sưu tầm. Cảm nhận về những sáng tác của Trần Dần, bạn đọc Nguyễn Đạt Quý cho rằng ''đậm tính triết lý''. Độc giả Hoàng Trọng Thủy viết: ''Trần Dần vốn theo triết học nên thơ văn của ông đôi khi khó hiểu, nhưng ông là một người cách tân văn học nghệ thuật độc đáo''.
Nhà thơ, nhà văn Trần Dần (1926-1997) sinh ở Ninh Bình (Nam Định cũ). Ông có nhiều tập thơ nổi tiếng như Chiều mưa trước cửa (1943), Hồn xanh dị kỳ (1944). Bên cạnh đó ông ra mắt các truyện dài Người người lớp lớp (1954), tiểu thuyết Đêm núm sen (2017), Những ngã tư và những cột đèn (2010). Ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007.
Phương Linh















