Sinh viên đừng nghĩ học xong 4 năm là được ra trường

Theo đại diện các trường đại học, sinh viên không nên nghĩ rằng cứ học xong 4 năm là được ra trường. Nếu các bạn không có kế hoạch, chỉ một môn rớt cũng kéo dài tiến độ đào tạo.
Vào phải đạt yêu cầu, ra phải đạt chuẩn
TS Nguyễn Trung Nhân, Trưởng phòng Đào tạo - Trường ĐH Công nghiệp TPHCM cho hay, sự chênh lệch tỷ lệ tốt nghiệp năm 2023 và 2024 là do cách tính khác nhau. Nếu năm 2023, nhà trường thường tính đơn giản số tốt nghiệp/quy mô sinh viên của khóa thì từ năm 2024, việc tính toán dựa trên Thông tư 01/2024 về chuẩn cơ sở giáo dục đại học. Theo cách này, tỷ lệ 40% sinh viên tốt nghiệp đúng hạn được coi là đạt chuẩn. Các trường chưa đạt mức này phải nỗ lực cải thiện.
“Chương trình đào tạo thường là 4 năm nhưng trên thực tế, sau 4 năm rất ít sinh viên tốt nghiệp, nhiều em phải mất thêm vài năm nữa. Đừng nghĩ rằng học xong 4 năm là được ra trường. Các trường sẽ phải siết chặt, không dễ cho sinh viên ra trường nếu chưa đạt chuẩn. Vào phải đạt yêu cầu nhưng ra phải đạt chuẩn”, ông Nhân nhấn mạnh.
Ông cho biết thêm rằng tại Trường ĐH Công nghiệp TPHCM, ở khối Kinh tế có thể 40-50% sinh viên tốt nghiệp đúng hạn, nhưng ở khối Công nghệ - Kỹ thuật thì ngay cả mức 40% cũng là thách thức, có ngành chỉ đạt 20-30%. "Nhà trường không thể cho sinh viên chưa đạt chuẩn ra trường”, ông nói.
Tất nhiên, việc kéo dài thời gian học đồng nghĩa với chi phí tăng thêm và sinh viên chậm tham gia thị trường lao động.
Ông Phạm Thái Sơn, Giám đốc tuyển sinh Trường ĐH Công Thương TPHCM, cũng cho rằng đại học không thể hy sinh chất lượng vì số lượng. “Chất lượng đào tạo có cao thì mới thu hút người học. Muốn tốt nghiệp đúng hạn, sinh viên phải có kế hoạch rõ ràng: Học môn gì, kỳ nào, thực tập ở đâu, tích lũy kinh nghiệm ra sao. Nếu rớt môn, phải sắp xếp học lại, kể cả kỳ hè. Nếu không có kế hoạch, chỉ một môn rớt cũng có thể kéo lùi tiến độ cả khóa học”, ông Sơn phân tích.
Vòng luẩn quẩn làm suy yếu đại học
PGS.TS Đỗ Văn Dũng, nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM, cảnh báo việc sinh viên không tốt nghiệp đúng hạn đang tạo thành “vòng luẩn quẩn” làm suy yếu nền giáo dục đại học. Tỷ lệ bỏ học và kéo dài thời gian học ngày càng cao, ảnh hưởng trực tiếp đến chỉ tiêu tuyển sinh và chất lượng nguồn nhân lực.
Theo Thông tư 01/2024 của Bộ GD-ĐT, tỷ lệ sinh viên thôi học hằng năm không vượt quá 10% (riêng năm đầu không quá 15%). Nhưng thực tế khắc nghiệt hơn: Năm 2024, tỷ lệ tốt nghiệp đúng hạn ở nhiều trường ĐH TPHCM chỉ 41,14%; bình quân giai đoạn 2022-2024 chỉ hơn 30% (tức 3/10 sinh viên ra trường đúng tiến độ, phần còn lại kéo dài hoặc bỏ học).
Tình trạng trúng tuyển nhưng bỏ học cũng gia tăng. Năm 2025, hơn 147.000 thí sinh trúng tuyển nhưng không nhập học (19,1%), cao hơn năm 2024 (122.000, tương đương 18,13%). Nguyên nhân chính: Chọn sai ngành (khoảng 30%), áp lực tài chính do học phí cao, chương trình nặng so với năng lực đầu vào.
Ông Dũng phân tích, theo Thông tư 03/2022 của Bộ GD-ĐT, chỉ tiêu tuyển sinh phụ thuộc vào năng lực đào tạo, số giảng viên quy đổi, nhu cầu thị trường lao động. Khi tỷ lệ bỏ học cao, quy mô đào tạo thực tế giảm, buộc trường phải cắt chỉ tiêu năm sau, đồng nghĩa nguồn thu học phí giảm mạnh (nhiều trường mất 20-30%). Để bù lại, một số trường “chạy chỉ tiêu” bằng tuyển sinh ồ ạt, tạo vòng lặp tiêu cực.
Hệ quả là chất lượng suy giảm, sinh viên tốt nghiệp thiếu kỹ năng thực tiễn, không đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp. Báo cáo ILO 2024 cho thấy tỷ lệ thất nghiệp thanh niên Việt Nam vẫn cao 12,8%, chủ yếu vì kỹ năng không khớp. Riêng quý 3/2024, hơn 1 triệu lao động thất nghiệp, trong đó sinh viên mới ra trường chiếm tỷ lệ lớn vì “học không đúng ngành, làm không đúng việc”. Ngoài ra, trường không đạt chuẩn theo Thông tư 01/2024, mất uy tín, khó thu hút thí sinh chất lượng, gây lãng phí hàng nghìn tỷ đồng ngân sách đào tạo do bỏ học giữa chừng.
Giải pháp không “chữa cháy”
Theo ông Đỗ Văn Dũng, để hướng tới chất lượng bền vững, không thể giảm tải chương trình hay nới lỏng đánh giá (dễ dẫn đến “bằng cấp ảo”). Cần khảo sát sinh viên năm nhất để điều chỉnh chương trình, tăng cường hỗ trợ cá nhân hóa. Ở khâu đầu vào, cần bỏ xét học bạ để chọn đúng chất lượng.
Đối với sinh viên, phải tư vấn hướng nghiệp từ sớm, khuyến khích học kỹ năng mềm và công nghệ (AI) để tăng động lực. Ở cấp Bộ, cần giám sát chặt hơn chỉ tiêu qua hệ thống phần mềm.
“Vấn đề này không thể giải quyết một sớm một chiều, nhưng nếu hành động đồng bộ từ Bộ đến trường và sinh viên, chúng ta có thể đảo ngược xu hướng”, ông Dũng nhấn mạnh.