Quy định mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp một lần

Mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp một lần được quy định tại tại Nghị định 158/2025/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp một lần thực hiện theo quy định tại Điều 72 của Luật Bảo hiểm xã hội và được quy định chi tiết như sau:
1. Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định có toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương này thì mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp một lần được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 72 của Luật Bảo hiểm xã hội.
a) Trường hợp người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội trước ngày 01 tháng 10 năm 2004 thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định mà hưởng bảo hiểm xã hội từ ngày 01 tháng 7 năm 2025 trở đi thì tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội trước ngày 01 tháng 10 năm 2004 được chuyển đổi theo chế độ tiền lương quy định tại thời điểm hưởng chế độ bảo hiểm xã hội để tính mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội. Riêng đối với người lao động có thời gian làm việc trong các doanh nghiệp đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định trước ngày 01 tháng 10 năm 2004 mà hưởng bảo hiểm xã hội từ ngày 01 tháng 7 năm 2025 trở đi thì tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội trước ngày 01 tháng 10 năm 2004 được chuyển đổi theo tiền lương quy định tại Nghị định số 205/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ để tính mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội;
b) Trường hợp người lao động chưa đủ số năm đóng bảo hiểm xã hội quy định tại khoản 1 Điều 72 của Luật Bảo hiểm xã hội thì tính bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của các tháng đã đóng.
2. Mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội đối với người lao động thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định trong một số trường hợp đặc biệt được quy định như sau:
a) Đối với người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đủ 15 năm trở lên theo các mức tiền lương thuộc nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm mà chuyển sang làm công việc khác tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp vẫn thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định mà có tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp hơn thì khi nghỉ hưu được lấy tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của số năm đóng liền nhau theo các mức tiền lương thuộc nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm tương ứng với số năm quy định tại khoản 1 Điều 72 của Luật Bảo hiểm xã hội để tính mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội;
b) Người lao động có thời gian là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân chuyển ngành làm việc tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định rồi mới nghỉ hưu mà khi nghỉ hưu có tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của số năm cuối trước khi nghỉ hưu thấp hơn so với số năm cuối trước khi chuyển ngành thì được lấy tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của số năm cuối trước khi chuyển ngành để tính mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội;
c) Người lao động không thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này trong quá trình đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định mà có mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội tính trên tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của số năm cuối trước khi nghỉ hưu thấp hơn so với tính trên toàn bộ thời gian đóng thì mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội được tính bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của toàn bộ thời gian.
3. Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định đã đóng bảo hiểm xã hội bao gồm phụ cấp thâm niên nghề sau đó chuyển sang ngành nghề có hoặc không có phụ cấp thâm niên nghề rồi mới nghỉ hưu thì việc tính mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội được thực hiện như sau:
a) Đối với trường hợp trong tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của toàn bộ những năm cuối không có phụ cấp thâm niên nghề thì lấy mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của những năm cuối trước khi nghỉ hưu, cộng với khoản phụ cấp thâm niên nghề cao nhất đã được hưởng tính theo thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội bao gồm phụ cấp thâm niên nghề; trường hợp thời gian hưởng phụ cấp thâm niên nghề cao nhất trước ngày 01 tháng 10 năm 2004 thì tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để tính khoản phụ cấp thâm niên nghề được chuyển đổi theo chế độ tiền lương quy định tại thời điểm giải quyết hưởng chế độ;
b) Đối với trường hợp trong tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của toàn bộ những năm cuối để tính mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp một lần đã có phụ cấp thâm niên nghề thì mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp một lần thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 72 của Luật Bảo hiểm xã hội;
c) Đối với trường hợp trong tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của những năm cuối để tính mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp một lần vừa có thời gian đóng có phụ cấp thâm niên nghề, vừa có thời gian đóng không có phụ cấp thâm niên nghề mà có mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội tính theo quy định tại điểm b khoản này thấp hơn so với tính theo số năm cuối trước khi chuyển nghề thì được tính mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của số năm cuối tương ứng trước khi chuyển nghề để tính lương hưu, trợ cấp một lần.
4. Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì việc tính bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 72 của Luật Bảo hiểm xã hội.
Đối với thời gian đóng bảo hiểm xã hội thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định được tính bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại khoản 1 Điều 72 của Luật Bảo hiểm xã hội trên tổng thời gian đóng theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định. Trường hợp chưa đủ số năm quy định tại khoản 1 Điều 72 của Luật Bảo hiểm xã hội thì tính bình quân tiền lương làm căn cứ đóng của các tháng đã đóng.
5. Khi tính mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội đối với người lao động có thời gian công tác ở cấp xã đã được tính hưởng bảo hiểm xã hội, thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP và thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố thì thời gian này được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do nhà nước quy định.
6. Khi tính mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội đối với người lao động có thời gian công tác trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội để tính hưởng chế độ bảo hiểm xã hội nhưng thời gian này người lao động không được hưởng tiền lương, sinh hoạt phí (được trả thù lao bằng công điểm hoặc lương thực như giáo viên mầm non, chủ nhiệm hợp tác xã có quy mô toàn xã,..) thì mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội không bao gồm thời gian không được hưởng tiền lương, sinh hoạt phí.
7. Mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu, trợ cấp một lần quy định tại Điều 72 của Luật Bảo hiểm xã hội được dùng để tính hưởng bảo hiểm xã hội một lần, trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân của người đang tham gia bảo hiểm xã hội hoặc đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội chết và trợ cấp hằng tháng đối với người lao động không đủ điều kiện hưởng lương hưu và chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.