Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 274 quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp; khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm xã hội.
Trường hợp không bị coi là trốn đóng
Nghị định 274 nêu rõ các trường hợp không bị coi là trốn đóng, cách xác định số tiền, số ngày chậm đóng và biện pháp xử lý.
Theo đó, người sử dụng lao động sẽ không bị coi là trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp nếu việc chậm đóng xuất phát từ các nguyên nhân bất khả kháng được cơ quan có thẩm quyền công bố như:
Bão, lũ, ngập lụt, động đất, hỏa hoạn lớn, hạn hán kéo dài và các loại thiên tai khác ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Dịch bệnh nguy hiểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và khả năng tài chính của cơ quan, tổ chức, người sử dụng lao động.
Tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật gây ảnh hưởng đột xuất, bất ngờ đến hoạt động của cơ quan, tổ chức, người sử dụng lao động.
Các sự kiện bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật dân sự.
Những trường hợp này được xem xét miễn trách nhiệm trốn đóng nhưng vẫn phải hoàn thành nghĩa vụ đóng khi điều kiện cho phép.
Cách tính tiền và ngày chậm đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp
Theo Nghị định 274, người sử dụng lao động được coi là chậm đóng khi nộp tiền bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp sau thời hạn quy định, dù đã đăng ký tham gia.
Cụ thể, số tiền chậm đóng là phần nghĩa vụ thuộc trách nhiệm của người sử dụng lao động nhưng chưa nộp đúng hạn. Trường hợp người lao động đã làm việc nhưng chưa được đăng ký tham gia bảo hiểm trong vòng 60 ngày kể từ khi hết thời hạn quy định, khoản tiền phải đóng cho họ cũng được tính là tiền chậm đóng.
Các trường hợp chậm nộp do nguyên nhân bất khả kháng (thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, tình trạng khẩn cấp…) không bị coi là trốn đóng, song vẫn phải hoàn tất nghĩa vụ khi điều kiện cho phép.
Thời điểm tính ngày chậm đóng được xác định kể từ ngày sau khi hết hạn đăng ký tham gia hoặc hết hạn đóng bảo hiểm theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.
Cách tính tiền và ngày trốn đóng
Doanh nghiệp bị coi là trốn đóng khi cố tình không đăng ký tham gia, chậm nộp quá 60 ngày sau thời hạn quy định, hoặc khai báo mức lương thấp hơn thực tế để giảm số tiền phải đóng.
Số tiền trốn đóng là phần doanh nghiệp phải đóng cho người lao động nhưng chưa thực hiện, bao gồm cả phần chênh lệch do khai báo sai mức lương làm căn cứ đóng.
Thời điểm tính ngày trốn đóng bắt đầu từ sau hạn đóng chậm nhất, tùy theo phương thức đóng của đơn vị:
Đóng theo tháng: tính từ ngày cuối cùng của tháng tiếp theo sau kỳ phát sinh tiền lương.
Đóng theo quý hoặc 6 tháng: tính từ ngày cuối cùng của tháng liền kề sau chu kỳ đóng.
Nếu doanh nghiệp đã được cơ quan bảo hiểm xã hội đôn đốc bằng văn bản: Trong vòng 45 ngày kể từ sau hạn đóng mà vẫn không nộp, ngày trốn đóng được tính sau 60 ngày kể từ hạn đóng chậm nhất.
Nếu bị đôn đốc sau 45 ngày, ngày trốn đóng được tính từ ngày thứ 15 kể từ khi văn bản đôn đốc được ban hành.
Các quy định chi tiết này giúp cơ quan bảo hiểm xã hội có căn cứ xác định rõ hành vi vi phạm, đảm bảo việc thu nộp minh bạch, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
Đáng chú ý, Nghị định nêu rõ, cơ quan bảo hiểm xã hội sẽ tính số tiền phải nộp thêm bằng 0,03%/ngày trên số tiền chậm hoặc trốn đóng.
Hàng tháng, cơ quan bảo hiểm xã hội có trách nhiệm xác định, thông báo và tổ chức thu hồi số tiền này để đảm bảo quyền lợi của người lao động.
Cơ quan bảo hiểm xã hội trực tiếp quản lý đơn vị tham gia sẽ có quyền xác định hành vi chậm hoặc trốn đóng, lập biên bản, áp dụng hoặc đề xuất biện pháp xử lý hành chính, đồng thời theo dõi việc khắc phục nghĩa vụ đóng của doanh nghiệp.
Nghị định mới được đánh giá là công cụ pháp lý quan trọng nhằm siết chặt kỷ luật tài chính trong lĩnh vực bảo hiểm, đồng thời tăng cường trách nhiệm của người sử dụng lao động, bảo đảm quyền lợi an sinh của người lao động được thực thi đầy đủ và kịp thời.