Nhảy đến nội dung
 

Phân định thành phần dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc thiểu số hiện nay

Vấn đề dân tộc không tồn tại một cách độc lập mà luôn gắn bó với các yếu tố tôn giáo, văn hóa, lịch sử, địa chính trị và quyền con người.

Ở Việt Nam, dân tộc thiểu số (DTTS) chiếm 14,3% dân số nhưng phân bố trên 70% diện tích lãnh thổ quốc gia. Trong khi đó, theo Báo cáo UNDP năm 2022, gần 55% tổng số hộ nghèo của cả nước là DTTS. Sự bất cân xứng này cho thấy nhu cầu cấp thiết phải tái cấu trúc lại cách tiếp cận chính sách dân tộc, cả về mặt lý luận và thực tiễn.

Không phải đến nay Đảng và Nhà nước mới quan tâm đến công tác dân tộc. Ngay từ sau ngày đất nước giành độc lập, Việt Nam đã xác lập định hướng phát triển như một quốc gia đa sắc tộc, thống nhất trong đa dạng. Danh mục 54 thành phần dân tộc Việt Nam được ban hành năm 1979 là sản phẩm của một giai đoạn đặc thù, trên cơ sở nghiên cứu liên ngành.

Tuy nhiên đến nay đã bộc lộ nhiều bất cập: thiếu cơ sở lý luận nhất quán, chưa bắt kịp với biến động xã hội và nhận thức cộng đồng.

Xác định thành phần dân tộc trong tình hình mới

Cách tiếp cận truyền thống sử dụng ba tiêu chí (ngôn ngữ, văn hóa, ý thức tộc người) đang dần trở nên thiếu hiệu lực trong bối cảnh xã hội hóa sâu rộng, giao thoa dân cư và hiện tượng "đa tộc hóa" trong tự nhận thức cộng đồng. Tiêu chí ngôn ngữ - từng là then chốt trong phân định tộc người - nay bị xói mòn mạnh do quá trình đồng hóa và dịch chuyển không gian văn hóa.

Theo TS. Nguyễn Công Thảo (2021), ba tiêu chí cốt lõi trên không còn đáp ứng yêu cầu nhận diện rõ ràng về mặt khoa học, dẫn đến sự mơ hồ trong phân loại. Điều này được minh chứng qua việc cùng một nhóm dân cư có thể được xem là một dân tộc riêng biệt, hoặc bị nhập vào dân tộc khác tùy từng thời kỳ (như trường hợp dân tộc Pa Kô, Ơ Đu, Pu Péo...).

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã chuyển dịch cách làm công tác dân tộc từ mô hình ưu tiên theo tộc danh sang tiếp cận phát triển dựa trên vùng khó khăn hoặc chỉ số phát triển con người.

Canada và Úc là hai ví dụ điển hình. Họ vẫn công nhận cộng đồng bản địa có quyền đặc thù về văn hóa và lịch sử nhưng các chính sách kinh tế - xã hội lại dựa trên mức độ tiếp cận dịch vụ công và thu nhập hộ gia đình. Ấn Độ có cơ chế "affirmative action" với hơn 700 nhóm được công nhận là "Scheduled Tribes" nhưng quá trình phân loại này có sự tham vấn cộng đồng, hội đồng học thuật và được điều chỉnh định kỳ.

Vấn đề thực tiễn đặt ra và năng lực quản trị danh mục dân tộc hiện hành

Việc sử dụng danh mục dân tộc làm cơ sở chi phối chính sách đã và đang tạo ra một số méo mó chính sách, dẫn đến sự "tha hóa chính sách" (policy distortion), nơi động cơ tách - nhập tộc người trở nên phổ biến nhằm trục lợi hỗ trợ. Điều này này tạo ra cảm giác bị phân biệt ngược với một số nhóm dân cư sống chung địa bàn nhưng không thuộc nhóm được hưởng lợi; cản trở quá trình điều hành chính sách theo vùng, vì nhiều vùng khó khăn nhưng lại không được xếp vào diện "ưu tiên dân tộc".

Tính đến năm 2020 đã có 22 tỉnh thành gửi đề nghị điều chỉnh thành phần hoặc tên gọi tộc người với 18 nhóm địa phương và 11 dân tộc. Có những dân tộc tồn tại (theo đúng các tiêu chí để công nhận là một tộc người) nhưng lại không có tên trong bảng danh mục các dân tộc.

Ngược lại, cũng có dân tộc có tên nhưng khó có thể công nhận đó là một tộc người, khi phải thỏa mãn 3 tiêu chí phân định. Điều này cho thấy nhu cầu cấp thiết về một quy trình khoa học, minh bạch để điều chỉnh tộc danh tộc người trong bảng danh mục các dân tộc Việt Nam một cách định kỳ, chứ không thể duy trì cố định như hiện nay.

Khả năng và nguyên tắc xây dựng bảng danh mục dân tộc mới

Việc xây dựng lại bảng danh mục thành phần dân tộc Việt Nam là khả thi, cần thiết và phù hợp với quy định pháp lý hiện hành:

Theo điều 24, Luật Thống kê 2015, Chính phủ là cơ quan có thẩm quyền ban hành danh mục dân tộc Việt Nam. Theo Nghị định 13/2017, Ủy ban Dân tộc có quyền trình Chính phủ danh mục này.

Theo Hiến pháp 2013, và kể cả hiến pháp 2025 sửa đổi vừa ban hành, việc ghi nhận tộc danh là quyền hiến định của người dân tộc thiểu số. Nếu việc ban hành danh mục các dân tộc không liên quan đến thực hiện chính sách đối với người DTTS thì không cần có ý kiến của Quốc hội.

Tuy nhiên, việc xây dựng lại bảng danh mục cần tuân thủ các nguyên tắc: Không làm phát sinh xáo trộn lớn về chính trị - hành chính; có quy trình xác minh khoa học liên ngành như dân tộc học, xã hội học, ngôn ngữ học, nhân học; có tham vấn cộng đồng, đảm bảo tự nguyện, không bị thúc ép bởi lợi ích vật chất.

Quan điểm đổi mới chính sách dân tộc

Đói nghèo không mang bản tính tộc người. Quy mô dân số không quyết định trình độ phát triển của dân tộc đó. Do vậy, cần có sự tách bạch rõ ràng giữa tộc người với tư cách là đơn vị văn hóa và vùng khó khăn với ưu tiên hỗ trợ kinh tế. Vì khi gắn tộc người với đơn vị phân bổ chính sách phát triển vô hình chung đã rơi vào bẫy định kiến, rằng cứ DTTS là kém phát triển.

Về điều này, Chương trình mục tiêu Quốc gia “phát triển tổng thể kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi” tuy không thể hiện rõ quan điểm mới, nhưng bằng nội dung hành động thực tế đã dẫn lối tiên phong: Chính sách cho Vùng, thay vì là một tộc người trong bảng danh mục.

Như vậy, chính sách văn hóa dựa trên danh mục tộc người, có cơ chế bảo tồn và phát huy giá trị đặc trưng (ngôn ngữ, nghi lễ, tri thức bản địa).

Chính sách phát triển kinh tế - xã hội dựa vào vùng cư trú, chỉ số phát triển, không phân biệt sắc tộc.

Một trong những nguy cơ lớn nhất của việc tiếp tục sử dụng danh mục dân tộc thiếu chính xác, lạc hậu là tạo ra chuỗi chính sách hệ quả dựa trên nền tảng không ổn định. Về mặt logic, khi đầu vào – tức là căn cứ phân định thành phần dân tộc không đảm bảo tính khoa học và thực tiễn, thì toàn bộ hệ thống chính sách, phân bổ nguồn lực, đánh giá hiệu quả... đều có nguy cơ bị sai lệch.

Việc các thiết chế quản lý nhà nước và phát triển xã hội tiếp tục dựa trên một danh mục dân tộc không còn phù hợp sẽ trở thành một dạng rủi ro chính sách nghiêm trọng.

Điều này giúp đảm bảo nguyên tắc công bằng, bình đẳng cơ hội, không gây chia rẽ trong cộng đồng.

Muốn đạt được các mục tiêu này, cần phải thực hiện song song hai nhiệm vụ cấp thiết.

Thứ nhất là, xây dựng mới bảng danh mục thành phần dân tộc Việt Nam trên cơ sở khoa học, cập nhật và có tham vấn cộng đồng. Danh mục này không chỉ phục vụ mục tiêu nhận diện văn hóa mà còn là tiền đề để xác lập các quyền, chính sách mang tính công bằng và chính danh.

Thứ hai, xây dựng một cách tiếp cận mới về công tác dân tộc, theo hướng phân biệt rõ chức năng văn hóa và chức năng phát triển. Nếu chỉ làm lại danh mục nhưng vẫn tiếp tục chính sách hỗ trợ mang tính đồng nhất theo tộc danh thì nguy cơ méo mó chính sách vẫn tồn tại. Ngược lại, nếu chỉ đổi mới cách tiếp cận nhưng danh mục dân tộc vẫn bất cập, thì chính sách mới cũng sẽ không có cơ sở thực tiễn để triển khai.

Hai nhiệm vụ này không tách rời nhau, mà cần triển khai đồng thời, bổ trợ cho nhau để đảm bảo hiệu quả chính sách, tính bền vững của phát triển, và sự ổn định trong khối đại đoàn kết các dân tộc.

Danh mục dân tộc hiện hành đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, nhưng trong bối cảnh hội nhập, đô thị hóa và chuyển đổi nhận thức cộng đồng, cần được rà soát và chuẩn hóa lại. Cùng với đó, chính sách dân tộc cần chuyển từ hỗ trợ theo tộc danh sang hỗ trợ dựa trên địa bàn và nhu cầu thực tế. Đây là bước chuyển từ "quản lý nhận dạng" sang "quản trị phát triển", phù hợp với xu thế toàn cầu và yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.

 
 
 
logo
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN

GPĐKKD: 0103884103 do sở KH & ĐT TP Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Địa chỉ: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season,  47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

MIỀN BẮC

Địa chỉ Showroom: D11-47 KĐT Geleximco Lê Trọng Tấn, Hà Đông, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

MIỀN NAM

Địa chỉ VPGD: 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn