Để giải quyết triệt để những vấn đề cấp bách ở các nhóm dân tộc còn gặp khó khăn, chính sách đầu tư, hỗ trợ giai đoạn 2026 - 2030 phải được "may đo”, nhận diện trúng đặc thù.
"Lên khung" chính xác thực trạng nghèo
Theo Quyết định số 1227/QĐ-TTg, giai đoạn 2021 - 2025 cả nước có 14 dân tộc với khó khăn đặc thù sinh sống tại 11 tỉnh. Trừ dân tộc Brâu sinh sống ở xã khu vực I, thì 13 dân tộc còn lại sống tập trung tại các địa bàn đặc biệt khó khăn đều được thụ hưởng chính sách đầu tư, hỗ trợ theo Tiểu Dự án 1, Dự án 9 của Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: Từ năm 2021 - 2025 (Chương trình MTQG 1719).
Tuy nhiên, qua 5 năm triển khai, kết quả giảm nghèo giữa các dân tộc có khó khăn đặc thù chưa đồng đều. Theo số liệu của Bộ Dân tộc và Tôn giáo, tính đến hết năm 2024, có 4/14 dân tộc có tỷ lệ hộ nghèo giảm so với năm 2019, trong đó dân tộc La Ha giảm sâu nhất (26%); nhưng có 9 dân tộc lại tăng tỷ lệ nghèo, cao nhất là dân tộc Lự (tăng 12%). Thậm chí, trong cùng một dân tộc tại những địa bàn khác nhau, kết quả giảm nghèo cũng khác nhau.
Lô Lô là 1 trong 14 dân tộc có khó khăn đặc thù, sinh sống tập trung ở 2 tỉnh Cao Bằng và Hà Giang (nay là tỉnh Tuyên Quang). Theo báo cáo của Bộ Dân tộc và Tôn giáo, tính đến hết năm 2024, trong số 399 hộ dân tộc Lô Lô ở Hà Giang có 94 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 23,6%; tỉnh Cao Bằng có 297 hộ nghèo trong tổng số 534 hộ, chiếm tỷ lệ 55,6% (tính chung tỷ lệ hộ nghèo của dân tộc Lô Lô là 41,9%).
Không riêng Lô Lô mà hiện các dân tộc có khó khăn đặc thù theo từng địa bàn sinh sống, đang “vênh” nhau về tỷ lệ nghèo. Đơn cử dân tộc Si La ở Lai Châu, tỷ lệ nghèo hiện là 29,9%, nhưng ở Điện Biên là 58,7%; dân tộc Bố Y ở Tuyên Quang là 16,2% thì ở Lào Cai là 28,2%…
Đặc biệt, dân tộc Chứt là 1 trong 2 dân tộc có khó khăn đặc thù có tỷ lệ giảm nghèo sâu trong giai đoạn 2019 - 2024 (giảm 16%). Nhưng giữa các địa bàn có dân tộc Chứt sinh sống tập trung, kết quả giảm nghèo lại không giống nhau. Trong đó, ở Đắk Lắk, tỷ lệ nghèo của dân tộc Chứt là 12,0%; ở Hà Tĩnh là 46,7%; ở Quảng Trị là 54,1%.
"Chỉnh dáng" chính sách khi dân số suy giảm
Theo ông Phí Mạnh Thắng, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Dân tộc và Tôn giáo), xác định các dân tộc có khó khăn đặc thù là một trong những yếu tố quyết định để bảo đảm hoàn thành mục tiêu Chương trình MTQG 1719 của cả giai đoạn. Nguyên tắc thực hiện là ưu tiên những nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026 - 2030.
Theo Quyết định số 39/2020/QĐ-TTg cũng như Nghị định số 255/2025/NĐ-CP, dân tộc có khó khăn đặc thù là dân tộc có dân số dưới 10 nghìn người. Tuy nhiên, tiêu chí “cứng” này cần được xem xét đa chiều hơn, nhất là đối với những dân tộc không đáp ứng tiêu chí nhưng đang có xu hướng suy giảm dân số.
Năm 2019, theo kết quả điều tra 53 DTTS lần thứ 2, dân tộc La Hủ có 2.952 hộ dân với 12.113 nhân khẩu, sinh sống tập trung tại Lai Châu. Nhưng đến tháng 7/2024, kết quả điều tra 53 DTTS lần thứ 3 (được Bộ Dân tộc và Tôn giáo công bố tháng 7/2025) cho thấy, dân tộc La Hủ có 2.311 hộ, với 10.314 nhân khẩu.
Cùng với suy giảm dân số, thì tỷ lệ nghèo trong đồng bào La Hủ còn rất cao. Tính đến tháng 11/2024, theo báo cáo của Bộ Dân tộc và Tôn giáo, tỷ lệ nghèo của dân tộc La Hủ là 73,87%; trong khi đó, tỷ lệ nghèo bình quân chung của 53 DTTS là 12,5%. Đáng chú ý ở một số bản làng của đồng bào La Hủ, tình trạng nghiện rượu, nghiện ma túy vẫn còn dai dẳng. Cùng với điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn thì những tệ nạn này đã và đang bào mòn chất lượng dân số dân tộc La Hủ.
Tại hội nghị tiếp xúc cử tri xã Thu Lũm của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lai Châu (ngày 30/9/2025), cử tri đã kiến nghị đại biểu Quốc hội tỉnh có ý kiến trước Quốc hội, xem xét đưa dân tộc La Hủ vào diện khó khăn đặc thù giai đoạn 2026 - 2030. Đây là vấn đề cần được các bộ, ngành, địa phương quan tâm thấu đáo khi triển khai Nghị định số 25/2025/NĐ-CP.















