Những người vượt Trường Sơn đi 'nối sóng'

Trong căn nhà ở đường Trần Cung, Cầu Giấy một ngày cuối tháng 9, ông Đoàn Như Lẫm, 78 tuổi, lại cùng những người bạn già là điện báo viên năm xưa, ôn lại ký ức về "trận chiến" trên những cánh sóng 57 năm trước.
"Bảy năm bám trụ chiến trường, chúng tôi đã nhận và chuyển ra Bắc hàng trăm nghìn bức điện nhưng xúc động nhất là bức điện báo tin chiến thắng, sáng 30/4/1975", ông Lẫm kể.
Hôm đó, cụm đài của ông đặt tại căn cứ Trung ương Cục Miền Nam ở Tây Ninh nhận được một bức điện "minh ngữ" (không dùng mật mã) của đài bạn đang đi cùng ông Võ Văn Kiệt, Bí thư Khu ủy T4 (khu Sài Gòn - Gia Định): "Báo cáo Thường vụ. Đã nhận được điện đầu hàng của Dương Văn Minh. Chúng tôi chuẩn bị vô. Ký: Sáu Dân".
Người nhận tin là điện báo viên Lê Quý Điểu, lúc 8h sáng. Nhưng bức điện gửi đến bằng "minh ngữ" là trái nguyên tắc bảo mật nên cụm đài của ông Lẫm từ chối. Tuy nhiên, đầu dây bên kia liên tục hối thúc đây là tin khẩn cần chuyển ngay cho Cấp ủy (Trung ương Cục Miền Nam), nên cụm đài đã chấp hành.
Bức điện sau đó được xác nhận đúng của ông Sáu Dân (bí danh của ông Võ Văn Kiệt) gửi. Tin chiến thắng khiến tất cả cùng vỡ òa. "Người ôm nhau khóc, người hát vang, tôi thì giương súng bắn lên trời mừng chiến thắng. Chúng tôi biết rằng đất nước từ nay đã thống nhất", ông Lẫm kể.
Tháng 4/1968, ông Đoàn Như Lẫm (khi đó 21 tuổi), nhân viên Bưu điện Hà Nội lên đường vào Nam nhận nhiệm vụ làm điện báo viên, bước vào hành trình gian khó xuyên Trường Sơn.
Trong kháng chiến chống Mỹ, thông tin liên lạc là yếu tố sống còn, quyết định sự thành bại. Mạng lưới thông tin Bắc - Nam thời đó duy trì bằng ba phương thức: điện thoại, đường thư và vô tuyến điện. Vô tuyến điện là phương thức nhanh nhất nhưng cũng nguy hiểm nhất, vì mỗi lần phát sóng là một lần đối mặt với nguy cơ bị phát hiện, định vị và tấn công.
Nhiệm vụ của những điện báo viên ngành Bưu điện chi viện từ miền Bắc là đảm bảo "mạch máu" thông tin không được gián đoạn, dù trong hoàn cảnh ác liệt nhất. Đó là lý do hàng nghìn thanh niên như ông Lẫm xung phong lên đường.
Đoàn của ông Lẫm có 200 người. Họ di chuyển bằng ôtô từ Hòa Bình vào Hà Tĩnh rồi đi bộ vượt Trường Sơn, suốt 5 tháng. Những nhân viên bưu điện vốn chỉ quen với máy móc, những tiếng "tạch tè" của mã Morse, nay phải đối mặt với thử thách sinh tồn.
Họ phải chinh phục những con dốc thẳng đứng, đối mặt với sốt rét rừng ác tính và những trận càn. Không ít người đã nằm trong đại ngàn.
"Mục tiêu của chúng tôi khi đó là phải đến được địa điểm 'B2 S9 ông cụ'", ông Lẫm kể. Đây là mật danh của Hậu cần chiến trường B2, một trong những chiến trường ác liệt nhất miền Nam.
Đến nơi, ông Lẫm được phân công về cụm đài B20. Công việc chủ yếu diễn ra ban đêm, nhưng đó cũng là lúc tín hiệu dễ bị chập chờn, nhiễu sóng. Người điện báo viên phải làm việc với sự tập trung cao độ, một tay gõ mã, tay kia liên tục dò chỉnh máy thu. Đôi tai phải làm hai nhiệm vụ cùng lúc, vừa lắng nghe tín hiệu "tạch tè" của đồng đội, vừa phải căng tai dò tiếng máy bay địch. Chỉ một tiếng ầm ì từ xa, mọi hoạt động phát sóng lập tức dừng lại nếu không, tọa độ bị phát hiện, bom đạn sẽ trút xuống.
Đó là cuộc đấu trí diễn ra từng giờ, từng phút. Để tồn tại, các cụm đài phải liên tục di chuyển, thay đổi tần số, áp dụng kỷ luật thép: tuyệt đối không nấu ăn, không chuyện trò lớn tiếng; không được bắn trả khi bị phục kích hay tấn công để bảo toàn bí mật.
"Ban thông tin cũng lập ra cụm đài giả B6, chuyên phát tín hiệu nhiễu để thu hút sự chú ý của địch. Cụm đài này trở thành mồi nhử, kéo B-52 về phía mình, hứng chịu bom đạn để cụm đài chính được an toàn làm nhiệm vụ", ông Lẫm kể.
Tháng 3/1970, cụm đài của ông Lẫm nhận lệnh di chuyển sang đất Campuchia để tránh các đợt càn quét. Mỗi người mang một bộ phận của cỗ máy liên lạc, băng rừng lẩn tránh B-52.
Nhưng ba tháng sau, địch đã tìm ra căn cứ mới. B-52 dội bom không ngừng. Cứ 15 phút một đợt, tiếng máy bay rít trên đầu "ì ì như tiếng cối xay lúa". Nghe hiệu lệnh, tất cả lao xuống hầm. Dứt đợt bom, họ lại trồi lên, tranh thủ làm việc. Suốt nhiều ngày, cả đơn vị không thể nấu ăn, phải cầm cự bằng gạo rang, uống nước suối.
"Đợt oanh tạc kéo dài như vậy, đơn vị chúng tôi không có ai hy sinh. Nhưng cụm thông tin B19 nằm ngay cạnh, cả một đài gồm 5 điện báo viên bị vùi chết dưới hầm", ông Lẫm nhớ lại.
Ông Vũ Ngọc Lương, 77 tuổi, cũng có những ký ức không thể quên về giai đoạn ở Campuchia. Tốt nghiệp trường điện báo ở Hà Nam, năm 24 tuổi, ông xung phong vào Nam, sau ông Lẫm bốn năm. Khi đường tiếp tế bị máy bay B-52 cắt đứt, lương thực cạn kiệt, cụm đài của ông Lương phải bẫy chuột rừng để chống đói.
Cuối năm 1972, gần giai đoạn ký Hiệp định Paris, lượng điện báo tăng vọt. Các điện báo viên phải làm việc liên tục 3-4 ngày đêm không ngủ. "Tay nghe, tay gõ, chân đạp ragono (máy phát điện). Nhiều lúc buồn ngủ quá tôi phải tự tát vào mặt mình cho tỉnh để ghi chép, truyền tin không sai một ký tự", ông Lương kể.
Tháng 4/1973, ông Lương nhận nhiệm vụ đi cùng Bí thư khu ủy hành quân xuống Khu 8 (vùng Đồng bằng sông Cửu Long) để truyền những tin tức tình báo quan trọng về Trung ương Cục Miền Nam. Để di chuyển, điện báo viên mang trên vai một bộ máy vô tuyến điện 15W, ăng ten, máy ragono và các thiết bị khác.
"Bộ máy nặng gần 40 kg, trong khi cơ thể chỉ hơn 50 kg. Đường hành quân sình lầy, liên tục bị địch truy đuổi, nhưng không một ai được phép tụt lại phía sau. Nhiệm vụ là phải đến đúng vị trí, truyền tin chính xác", ông Lương kể.
Với điện báo viên, máy móc quan trọng hơn tính mạng. Một quy tắc ngầm khi đó là nếu gặp địch càn, việc đầu tiên là phải đào đất chôn giấu máy rồi mới tính đến chuyện thoát thân.
Ông Nguyễn Văn Thanh, 75 tuổi, Chủ nhiệm câu lạc bộ truyền thống kháng chiến khối thông tin miền Nam khu vực phía Bắc, cho biết trong kháng chiến, ngành Bưu điện miền Bắc có hàng nghìn nhân viên chi viện cho miền Nam. Sự đóng góp của họ đã giúp mạng lưới thông tin phát triển vượt bậc. Lượng điện báo từ 3.000-4.000 những năm 1968 tăng vọt lên 80.000 bức mỗi tháng vào cuối năm 1973. Đáng chú ý, trong gần 300 máy thu phát hoạt động trên toàn miền, có tới 250 máy do các chiến sĩ tự lắp ráp.
Để giữ vững "mạch máu" thông tin ấy, sự hy sinh là không thể tránh khỏi. Trong hơn 20 năm, toàn ngành Bưu điện đã có hơn 4.400 người hy sinh, trên 2.000 người bị thương.
Những người như ông Lẫm, ông Lương, ông Thanh đều được trao tặng Huân chương Chiến thắng và nhiều bằng khen. Nhưng với họ, niềm vui chiến thắng không bao giờ trọn vẹn.
"Chúng tôi may mắn được trở về nhưng luôn đau đáu nỗi tiếc thương cho những đồng đội đã ngã xuống. Nhiều người trong số họ đến nay vẫn chưa tìm thấy hài cốt, chưa được về với gia đình", ông Thanh kể.
Đó cũng là lý do câu lạc bộ của ông Thanh ra đời và duy trì hoạt động. Họ không chỉ gặp nhau để ôn lại kỷ niệm, mà còn cùng nhau đi tìm đồng đội, thăm hỏi, động viên gia đình các liệt sĩ, để phần nào xoa dịu những nỗi đau còn lại sau chiến tranh.
Quỳnh Nguyễn - Nga Thanh