Nhảy đến nội dung
 

NHNN: Thu giữ TSBĐ là công cụ lao động duy nhất có thể khiến người vay thêm khó khăn, không đảm bảo khả năng nuôi sống bản thân và gia đình

Theo NHNN, đối với một số trường hợp như tài sản bảo đảm (TSBĐ) là công cụ lao động duy nhất mang lại thu nhập tối thiểu cho bên bảo đảm, việc thu giữ TSBĐ có thể khiến bên bảo đảm càng khó khăn về tài chính cũng như không đảm bảo khả năng nuôi sống bản thân và gia đình; tương tự, việc thu giữ TSBĐ là nhà ở duy nhất cũng có thể khiến bên bảo đảm và gia đình không còn nơi ở.

Ngân hàng Nhà nước cho biết đang lấy ý kiến về Nghị định quy định điều kiện tài sản bảo đảm khoản nợ xấu được thu giữ.

Theo Dự thảo được NHNN công bố. Tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ khi đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 198a Luật số 32/2024/QH15 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 96/2025/QH15 và các điều kiện sau:

a) Tài sản bảo đảm không phải là nhà ở duy nhất của bên bảo đảm;

b) Tài sản bảo đảm không phải là công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất của bên bảo đảm.

NHNN cũng có lý giải chi tiết về đề xuất này. Dự kiến Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 10 năm 2025.

Về điều kiện tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ (Điều 4)

Để đảm bảo việc thu giữ TSBĐ không ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh hoạt, lao động và sản xuất của người dân, dự thảo Nghị định đã quy định cụ thể về điều kiện tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ ngoài các điều kiện theo quy định tại Luật số 96/2025/QH15. Cụ thể:

(i) Tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ khi đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 198a Luật số 32/2024/QH15 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 96/2025/QH15 và các điều kiện sau: (1) Tài sản bảo đảm không phải là nhà ở duy nhất của bên bảo đảm; (2) Tài sản bảo đảm không phải là công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất của bên bảo đảm.

(ii) Tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu không phải là tài sản quy định tại khoản 1 Điều này được thu giữ khi đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 198a Luật số 32/2024/QH14 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 96/2025/QH15.

Quy định này cũng được xây dựng trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế của một số quốc gia như Pháp, Canada, Liên Bang Nga, Đức. Qua rà soát, pháp luật ở các nước trên hầu như chỉ có các quy định hạn chế trong thu giữ tài sản của bên phải thi hành án để thực hiện việc thi hành bản án, quyết định có hiệu lực. Phạm vi hạn chế được xem xét trên toàn bộ các tài sản của bên phải thi hành án để thanh toán cho người được thi hành án - là các chủ nợ không có bảo đảm (judgement creditors). Trong khi đó, đối với các chủ nợ có bảo đảm, TSBĐ là tài sản đã được xác định tại thời điểm ký thỏa thuận/giao dịch bảo đảm nhưng chỉ có một số ít các quốc gia có điều chỉnh về các hạn chế khi thực hiện thu giữ TSBĐ bởi chủ nợ có bảo đảm.

Trên thực tế, mặc dù để thực hiện thu giữ theo quy định tại Điều 198a Luật số 32/2024/QH15 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 96/2025/QH15, TCTD, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu phải tuân thủ các điều kiện, trình tự, thủ tục rõ ràng, minh bạch. Tuy nhiên, đối với một số trường hợp như TSBĐ là công cụ lao động duy nhất mang lại thu nhập tối thiểu cho bên bảo đảm, việc thu giữ TSBĐ có thể khiến bên bảo đảm càng khó khăn về tài chính cũng như không đảm bảo khả năng nuôi sống bản thân và gia đình; tương tự, việc thu giữ TSBĐ là nhà ở duy nhất cũng có thể khiến bên bảo đảm và gia đình không còn nơi ở.

Theo khuyến nghị của các chuyên gia, TSBĐ được thu giữ phải có giá trị không vượt quá một ngưỡng nhất định. Tuy nhiên, việc xác định ngưỡng giá trị tài sản để được thu giữ cũng không khả thi do mỗi khách hàng vay có năng lực tài chính khác nhau, có TSBĐ khác nhau; mục đích vay, giá trị khoản vay và TSBĐ tương ứng cũng vô cùng đa dạng. Việc đưa ra ngưỡng chung về giá trị tài sản để được thu giữ áp dụng cho tất cả các khách hàng vay sẽ không đảm bảo tính khách quan và không khả thi trong thực tiễn.

Để đảm bảo quy định trên được thực thi thống nhất, dự thảo Nghị định đưa ra 2 khái niệm "nhà ở duy nhất" và "công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất" (Điều 3)

Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc nghiệm quốc tế và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành như Luật Nhà ở, Luật Cư trú, NHNN đề xuất định nghĩa khái niệm "nhà ở duy nhất" và "công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất" tại Điều 3 dự thảo Nghị định nhằm thống nhất về cách hiểu và áp dụng khi các tài sản trên được sử dụng làm TSBĐ, theo đó:

(i) Nhà ở duy nhất là công trình xây dựng duy nhất thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm nơi bên bảo đảm ở và sinh sống ổn định, lâu dài hoặc thường xuyên sinh sống.

Quy định này được xây dựng trên cơ sở khái niệm "nhà ở" tại khoản 1 Điều 2 Luật Nhà ở số 27/2023/QH15 và khái niệm "chỗ ở hợp pháp", "nơi thường trú", "nơi ở hiện tại" tại khoản 1, 8, 10 Luật Cư trú số 68/2020/QH14.

(ii) Công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất là phương tiện lao động mang lại thu nhập chủ yếu hoặc duy nhất cho bên bảo đảm. Thu nhập chủ yếu hoặc duy nhất của bên bảo đảm được xác định tương ứng với mức lương tối thiểu theo vùng nơi bên bảo đảm sinh sống và làm việc theo quy định của Chính phủ về mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam không có khái niệm "mang lại thu nhập chủ yếu hoặc duy nhất". Tuy nhiên, theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 87 Luật Thi hành án dân sự và quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 55 dự thảo 4 Luật Thi hành án dân sự, "công cụ lao động cần thiết, có giá trị không lớn được dùng làm phương tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải thi hành án và gia đình" là tài sản không được kê biên.

Các khái niệm trên cũng được xây dựng trên cơ sở tham khảo về tài sản được loại trừ khi thực hiện kê biên TSBĐ của Đức (miễn trừ khỏi việc bị tịch thu nhằm đảm bảo các điều kiện sống cơ bản và khả năng lao động của bên nợ) và Canada (Công cụ, tài sản cá nhân dùng để kiếm thu nhập theo nghề của khách hàng vay).

Việc định lượng thu nhập chủ yếu hoặc duy nhất của bên bảo đảm dựa trên cơ sở sau:

Khoản 1, 2, 3 Điều 91 Bộ Luật Lao động số 45/2019/QH14 quy định: "1. Mức lương tối thiểu là mức lương thấp nhất được trả cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội; 2. Mức lương tối thiểu được xác lập theo vùng, ấn định theo tháng, giờ; 3. Mức lương tối thiểu được điều chỉnh dựa trên mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ; tương quan giữa mức lương tối thiểu và mức lương trên thị trường; chỉ số giá tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế; quan hệ cung, cầu lao động; việc làm và thất nghiệp; năng suất lao động; khả năng chi trả của doanh nghiệp".

Trên cơ sở quy định tại khoản 4 Điều 91 Bộ Luật số 45/2019/QH14, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 74/2024/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 128/2025/NĐ-CP. Trong đó, Nghị định quy định mức lương tối thiểu lần lượt là 4.960.000 đồng/tháng (Vùng I), 4.410.000 đồng/tháng (Vùng II), 3.860.000 đồng/tháng (Vùng III), 3.450.000 đồng/tháng (Vùng IV).

Căn cứ các quy định trên, mức lương tối thiểu do Chính phủ quyết định và công bố trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng Tiền lương Quốc gia và được điều chỉnh dựa trên mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình, để đảm bảo có thể chi trả được các khoản phí cơ bản nhất về: Chi phí lương thực, thực phẩm đảm bảo cung cấp đủ lượng Kcal cần thiết. Các chi phí đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng tối thiểu cho giáo dục, y tế, nhà ở, năng lượng, chất đốt, đồ dùng sinh hoạt hàng ngày, giao thông đi lại, giải trí, trang phục quần áo, thiết bị phục vụ sinh hoạt, các khoản đóng góp, chi khác. 

Trường hợp dự thảo Nghị định được thông qua, căn cứ trên mức lương tối thiểu được xác định tại Nghị định của Chính phủ, bên bảo đảm sẽ xác nhận, cam kết TSBĐ có phải là công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất hay không trên cơ sở xác định TSBĐ đó có mang lại thu nhập tương ứng với mức lương tối thiểu theo vùng nơi bên bảo đảm sinh sống và làm việc hay không.

Trách nhiệm của bên bảo đảm

Dự thảo Nghị định quy định thời điểm xác nhận và cam kết của bên bảo đảm cũng như trách nhiệm chứng minh của bên bảo đảm do bên bảo đảm là người trực tiếp sở hữu, sử dụng tài sản, nắm rõ hiện trạng thực tế, hồ sơ pháp lý và mục đích sử dụng của tài sản và TCTD không phải cơ quan quản lý nhà nước nên không được cung cấp cơ chế để xác minh tình trạng của TSBĐ.

Về bản chất, việc thu giữ TSBĐ theo quy định của Luật số 96/2025/QH15 là biện pháp xử lý theo thỏa thuận của các bên có liên quan. Tuy nhiên, bên thực hiện thu giữ TSBĐ không có trách nhiệm cũng như không có khả năng để kiểm tra, xác minh nhà ở của cá nhân có phải là nhà ở duy nhất hay không và cũng không có khả năng kiểm tra, xác minh công cụ lao động có phải là công cụ lao động có phải là công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất hay không.

Trường hợp phải thuê bên thứ ba thực hiện các công việc này sẽ làm phát sinh chi phí, thủ tục khi cấp tín dụng và/hoặc khi tiến hành thu giữ TSBĐ.

Do vậy, nghĩa vụ, trách nhiệm xác nhận, cam kết và chứng minh nội dung liên quan về TSBĐ thuộc về bên bảo đảm.

Căn cứ trên xác nhận, cam kết và tài liệu chứng minh của bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm đánh giá và "ứng xử" với TSBĐ phù hợp với khẩu vị rủi ro của mình (trường hợp TSBĐ được coi là nhà ở duy nhất và công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất, bên nhận bảo đảm không được tiến hành thu giữ).


 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: daisanjsc@gmail.com

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn