Cuốn sách của tác giả Uông Triều chứa đựng rất nhiều câu chuyện thú vị về hành trình trưởng thành của một người cầm bút. Với kinh nghiệm nhiều cầm bút và làm bên tập viên, tác giả hiểu được người viết thường gặp khó ở đâu và làm cách nào để giải quyết những khó khăn ấy, nhiều kinh nghiệm sáng tác cũng được tiết lộ trong cuốn sách này.
![]() |
Tượng của Hans Christian Andersen trong công viên tại New York. Sinh thời ông là một người thích du lịch. Ảnh minh họa: N.Y.C Parks. |
Có một câu hỏi khá thường trực với những người viết trẻ là có cần đi thực tế để viết và vai trò của thực tế quan trọng thế nào? Nó có phải yếu tố bắt buộc của sự viết không?
Nhiều người biết rằng Tố Hữu chưa lên Điện Biên mà viết được Hoan hô chiến sĩ Điện Biên rất hoành tráng và sát với những địa danh thực tế. Nguyễn Tuân chưa lên Tản Viên mà viết được Trên đỉnh non Tản. Nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ chưa đến Pác Pó mà viết được ca khúc Tiếng hát giữa rừng Pác Pó nổi tiếng và nhiều ví dụ khác chứng minh rằng, không cần đến đúng nơi ấy, chứng kiến sự kiện ấy mới viết được tác phẩm.
Nói như vậy, có người sẽ cho rằng tôi cổ xúy cho văn nghệ salon, chỉ cần ngồi ở nhà và không cần đi đâu cũng viết được. Điều này chưa đúng nhưng rõ ràng đi thực tế không phải điều kiện tiên quyết để tác phẩm có tính xác thực hoặc hấp dẫn. Nó chỉ là điều kiện cần thiết và được khuyến khích.
Không quá phụ thuộc vào những điều kiện thực tế, sáng tạo của nhà văn sẽ bay bổng và vươn xa hơn nhiều và đó cũng là một trong những đặc điểm vượt trội mà không phải môn nghệ thuật hoặc khoa học nào có thể thay thế văn học.
Các nhà văn truyền thống ưa thích sự xê dịch và lãng du. Họ đi lại, quan sát và ghi chép vàrồi từ những thu lượm thông tin ngoài hiện trường, cuộc sống để tích lũy, tinh lọc cho những trang viết của mình.
Trong quá trình đi thực tế, có người ghi lại tỉ mỉ mọi sự kiện, câu chuyện; người khác chỉ ghi lại những ấn tượng lớn và cũng có kiểu chỉ quan sát và lưu nhớ trong não bộ. Kiểu ghi chép tỉ mỉ tỏ ra hữu hiệu với những nhà văn chủ trương gắn liền với hiện thực xã hội hoặc loại hình văn học đòi hỏi tính chính xác cao như bút kí, ghi chép.
Các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, theo tôi không đòi hỏi quá nhiều từ hiện thực cuộc sống. Nó là kiểu văn học hư cấu nên phần tưởng tượng của nhà văn đóng vai trò quan trọng và quyết định. Tất nhiên những hư cấu, tưởng tượng của người viết cơ bản dựa trên những kinh nghiệm, quan sát trước đó và quá trình tích lũy từ cuộc sống.
Hiển nhiên việc tiếp thu kiến thức qua sách vở và các kênh thông tin cũng là một cách đi thực tế. Ngay cụm từ “thực tế” cũng phải mở rộng biên độ ra, nếu cho rằng thực tế nhất thiết là phải đến tận nơi, sờ tận tay, nó sẽ bó hẹp khả năng tưởng tượng và năng lực sáng tạo.
Nếu nhất thiết phải đến châu Phi mới viết được về lục địa đen hoặc phải lên mặt trăng mới viết được về chị Hằng thì văn học, nghệ thuật sẽ rất tầm thường. Nó lệ thuộc vào đôi chân bám chặt mặt đất và không tài nào cất cánh lên được.
Tôi nói thêm về một trường hợp cụ thể về hư cấu, đó là sự sáng tạo về đề tài lịch sử. Rõ ràng không ai có thể sống trong quá khứ lúc mình chưa sinh ra. Người viết chỉ có thể tái tạo, phục dựng lịch sử qua sách vở, phim ảnh, những lời kể cùng sự phân tích, xét đoán, tưởng tượng của mình.
Ví dụ chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 được ghi chép khá sơ sài trong sách sử và các câu chuyện kể. Không còn ai sống ở thời ấy để kể lại chính xác diễn biến của trận đánh. Người viết có đến thực địa cũng chỉ là một giải pháp hỗ trợ để khảo sát về địa lý và lấy cảm xúc.
Việc miêu tả kĩ lưỡng trận thủy chiến nổi tiếng này cơ bản dựa vào sự tưởng tượng và khả năng phân tích của người viết. Và người đọc tất nhiên không ai ngây thơ tới mức đặt câu hỏi với tác giả: Ông có chứng kiến sự kiện ấy đâu mà viết?
Có một thời, người ta quá coi trọng khảo sát thực tế. Có nhiều chuyến đi của hàng trăm, hàng nghìn văn nghệ sĩ đến các nông trường, nhà máy, công trường, các vùng miền núi xa xôi, nông thôn để tìm tư liệu để viết.
Tất nhiên kết quả của việc đi thực tế này là có nhiều tác phẩm ra đời và có giá trị nhất định nhưng cũng nhiều tác phẩm chỉ mang tính minh họa thuần túy, quá phụ thuộc vào tư liệu hiện thực, chưa đủ tầm khái quát nên chỉ có giá trị nhất thời. Đi qua những thời điểm nhất định hoặc khi một số quan niệm về sáng tác bị thay đổi thì những tác phẩm kiểu ấy dễ lỗi thời, lạc hậu.
Ở đây tôi muốn nói thực tế nên là một sự tinh luyện và chắt lọc, nó không nhất thiết là sự sống sượng bê nguyên hoặc mượn nguyên những gì mình trông thấy. “Chụp hình nguyên mẫu” đã có báo chí và các phương tiện truyền thông khác, không cần đôi cánh của văn học nghệ thuật.
Người nghệ sĩ cần những va chạm thực tế để biết cuộc sống, đời thực, cảm nhận nhưng không phụ thuộc hoàn toàn vào nó, mắt thấy tai nghe chỉ chắp thêm đôi cánh và bồi bổ sự tự tin cho sáng tạo và tưởng tượng.