Ma trận học phí đại học

Học phí đại học (ĐH) thời gian gần đây có nhiều biến động dẫn đến nhiều trường hợp sinh viên lỡ chọn ngành học phí cao buộc nhà trường phải đứng ra hỗ trợ.
Khổ vì không lựa túi tiền khi chọn ngành học
Lãnh đạo phòng đào tạo một trường ĐH lớn tại Hà Nội cho biết, đã có một vài trường hợp sinh viên chọn ngành học phí cao trong năm học qua. Khi nhập học, sinh viên không đủ điều kiện nhận học bổng, trong khi kinh tế gia đình eo hẹp, sinh viên không còn cơ hội xét tuyển trường khác. Trước trường hợp này, nhà trường đứng ra kêu gọi các tổ chức, cá nhân, thầy cô giáo trong trường chung tay giúp đỡ. Nhưng việc hỗ trợ cũng chỉ là giải pháp ngắn hạn, chặng đường 2 - 3 năm phía trước bản thân sinh viên chưa biết sẽ phải đối mặt với bài toán đóng học phí như thế nào.
Vị lãnh đạo này cho biết, trường đã hỗ trợ giới thiệu một số công việc phù hợp ở thư viện, giúp tân sinh viên có thêm sinh hoạt phí. Ngoài ra, sinh viên cũng tìm việc làm thêm ở ngoài. “Phải lo kinh tế sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của sinh viên. Không tốt nghiệp đúng hạn, thời gian học tập kéo dài, những thiệt hại về kinh tế, thời gian không thể cân đong đo đếm với mỗi sinh viên”, vị này nói.
Học phí ĐH công lập hằng năm hiện tăng theo lộ trình quy định của Chính phủ. Năm nay, các trường công lập chưa tự chủ, học phí các nhóm ngành dao động từ 1,7 triệu đồng/tháng/sinh viên đến 3,5 triệu đồng/tháng/sinh viên, cao hơn năm 2024 từ 190 nghìn đồng đến 390 nghìn đồng/tháng.
Đối với trường tự chủ một phần, học phí được xác định tối đa bằng 2 lần mức trần học phí trên, tương ứng với từng khối ngành, dao động từ 3,4 triệu đồng đến 7 triệu đồng/tháng. Với trường tự chủ hoàn toàn, học phí được xác định tối đa bằng 2,5 lần mức trần học phí chưa tự chủ, từ gần 4,3 triệu đồng đến 8,7 triệu đồng/tháng.
Đây là mức học phí đối với chương trình chuẩn (chương trình đại trà). Hiện các trường có rất nhiều chương trình đào tạo, tương ứng với các mức học phí khác nhau. Ví dụ Trường ĐH Thương mại, học phí chương trình chuẩn từ 24- 27,9 triệu đồng/năm/sinh viên, chương trình quản trị kinh doanh, song bằng quốc tế, tiên tiến học phí từ 38,5 - 65 triệu đồng/năm/sinh viên. Học viện Phụ nữ Việt Nam, chương trình chuẩn, học phí 14,4 - 16,5 triệu đồng/năm học, chương trình dạy bằng tiếng Anh 26,8 triệu đồng/năm.
Như vậy, cùng một trường, học phí giữa các chương trình có sự chênh lệch từ 10 triệu đồng/năm đến 20 - 30 triệu đồng/năm.
TS Ngô Quốc Trinh, Trưởng phòng Đào tạo, Trường ĐH Công nghệ Giao thông Vận tải cho rằng, các thí sinh nên tìm hiểu học phí khi lựa chọn ngành học. Trước ma trận học phí chương trình đào tạo như hiện nay, ông Trinh cho rằng, thí sinh cần quan tâm tới lộ trình tăng học phí ở những trường tự chủ để có sự chủ động chuẩn bị tài chính trong 3 - 4 năm học ĐH. Đồng thời, thí sinh cần tìm hiểu chính sách học bổng, chính sách tín dụng riêng cho sinh viên của mỗi trường; so sánh học phí cùng chương trình giữa các trường; cơ hội làm thêm quanh khu vực trường “đóng đô”.
Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT, chi ngân sách cho giáo dục ĐH năm 2013 là 19.271 tỷ đồng, tương đương 0,43% GDP và 9,3% tổng chi ngân sách cho GD&ĐT. Đến 2022, mức chi này giảm xuống còn hơn 10.000 tỷ đồng, chiếm 0,11% GDP và 3,4% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo.
Khi học phí là “nồi cơm chính”
Ghi nhận cho thấy, xu hướng tự chủ ĐH đang diễn ra mạnh mẽ. Sắp tới, số lượng trường ĐH công lập chưa tự chủ ngày càng ít, cơ hội học ĐH với mức học phí thấp ngày càng hẹp chưa kể các trường ĐH chưa tự chủ cũng có nhiều chương trình chất lượng cao, chương trình liên kết…
Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT, chi ngân sách cho giáo dục ĐH năm 2013 là 19.271 tỷ đồng, tương đương 0,43% GDP và 9,3% tổng chi ngân sách cho GD&ĐT. Đến 2022, mức chi này giảm xuống còn hơn 10.000 tỷ đồng, chiếm 0,11% GDP và 3,4% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo.
Báo cáo cũng nêu rõ bình quân tỉ lệ chi cho giáo dục ĐH/ngân sách chi cho GD&ĐT của nhóm quốc gia có thu nhập trung bình là 18%, thu nhập cao là 23%. Như vậy, tại Việt Nam, ngân sách nhà nước chi cho giáo dục ĐH đạt mức rất thấp so với các nước trong khu vực và thế giới, trong khi việc huy động các nguồn lực từ xã hội còn hạn chế. Có thể nói, sau 10 năm ngân sách cho giáo dục ĐH giảm cả về giá trị tuyệt đối và tương đối, trong khi ngân sách nhà nước chi cho giáo dục ổn định khoảng trên 20%.
Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn khẳng định, đây là một thực tế. Nguồn chi ngân sách đầu tư cho giáo dục ĐH trong 10 năm, có sự điều chỉnh và có thay đổi theo chiều hướng giảm dần vì triển khai mạnh mẽ xu hướng tự chủ ĐH. Khi các trường được duyệt phương án tự chủ, lập tức bị cắt phần kinh phí hỗ trợ chi thường xuyên. Do vậy, thời gian qua, số trường tự chủ tăng, mức độ tự chủ càng cao thì phần hỗ trợ kinh phí từ Nhà nước giảm dần.
Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cho rằng, những năm qua tổng nguồn lực tài chính cho hoạt động của các cơ sở giáo dục từ nhiều nguồn có tăng nhưng vẫn còn thấp. Phần lớn các trường dựa vào nguồn thu học phí nên ít có khả năng, tiềm lực để tái đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật một cách đồng bộ. Việc triển khai tự chủ có điều kiện ràng buộc về kiểm định, tài chính và thực hiện lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công chưa đủ bù đắp chi phí đào tạo.