Nhảy đến nội dung
 

Khốc liệt đường đua phát triển UAV quân sự

Cuộc đua phát triển UAV quân sự trên thế giới đang ngày càng gay gắt trong bối cảnh xung đột vũ trang lan rộng và căng thẳng địa chính trị gia tăng.

Từ những UAV vũ trang hạng nặng tới các bầy UAV cảm tử giá rẻ hiện nay, UAV quân sự đã trở thành công cụ làm thay đổi cuộc chơi trong tác chiến hiện đại và làm gia tăng áp lực đổi mới cho nhiều quân đội trên toàn cầu.

Không còn là cuộc chơi của riêng những ông lớn như Mỹ hay Nga, cuộc đua phát triển UAV quân sự giờ đây có sự tham gia của nhiều bên khác với sự trỗi dậy của phương pháp chiến tranh bất đối xứng, khi những bầy UAV cơ bản với chi phí thấp nhưng sức sát thương cao được sản xuất hàng loạt.

Tiêu chuẩn vàng của UAV hạng nặng

Đầu những năm 2000, Mỹ bắt đầu trang bị vũ khí cho các UAV trong cuộc chiến chống khủng bố. Sự ra đời của UAV vũ trang (UCAV) đã thay đổi bản chất tác chiến hiện đại: tấn công chính xác từ xa mà không đặt phi công trực tiếp vào vùng nguy hiểm.

Trong phân khúc UCAV hạng nặng, mẫu MQ-9 Reaper của Mỹ (tiền thân là MQ-1 Predator) được xem là "tiêu chuẩn vàng", với thời gian bay 27 giờ, độ cao 15.000 mét và khả năng mang 1.700 kg vũ khí, từ tên lửa Hellfire đến bom dẫn đường chính xác cao.

Chuyên sang hàng không AeroTime xếp MQ-9 vào vị trí đầu bảng trong số những UCAV tốt nhất thế giới. Nổi tiếng với tính linh hoạt, khả năng hoạt động bền bỉ và mang theo nhiều vũ khí, MQ-9 đã chứng minh độ hiệu quả trong nhiều cuộc xung đột và hiện là khí tài quan trọng trong kho vũ khí của quân đội Mỹ và các đồng minh như Anh, Pháp, Ý, Hà Lan, Tây Ban Nha.

Kể từ khi được Mỹ biên chế vào năm 2007, MQ-9 liên tục được cập nhật để thu hút sự quan tâm từ các khách hàng trên khắp thế giới.

Song song đó, nhiều nước như Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, Israel và Nga cũng đẩy mạnh phát triển UCAV nội địa để đáp ứng nhu cầu tác chiến và xuất khẩu. Thổ Nhĩ Kỳ là ví dụ điển hình của nhà sản xuất UCAV xuất khẩu thành công với Bayraktar TB2 và dòng Anka, đã chứng minh hiệu quả thực chiến ở nhiều vùng xung đột. UAV Bayraktar TB2 nổi bật nhờ chi phí thấp, dễ triển khai và hiệu quả trong thực chiến. Nhà sản xuất Baykar Defense thậm chí đã mở rộng sản xuất và đầu tư nhà máy ở Ukraine để tăng năng lực cung cấp, theo Reuters.

Trong khi đó, UCAV Wing Loong II của Trung Quốc được đánh giá là phiên bản hợp túi tiền cho các khách hàng quốc tế muốn đa dạng hóa kho vũ khí, tránh phụ thuộc vào vũ khí Mỹ. Mỗi chiếc Wing Loong II ước tính có giá 1-5 triệu USD trong khi một chiếc MQ-9 ước tính có giá 30-40 triệu USD.

UAV quân sự Mỹ bị thất thế

Trong nỗ lực cạnh tranh với sự bành trướng của Trung Quốc trên thị trường UAV vũ trang, Mỹ đã phải vật lộn với những ràng buộc tự đặt ra từ Hiệp ước Kiểm soát Công nghệ Tên lửa (MTCR).

MTCR được thành lập năm 1987, là thỏa thuận đa quốc gia nhằm hạn chế xuất khẩu công nghệ tên lửa và UAV tầm xa. Các UAV như MQ-9 được xếp vào hạng I (có khả năng mang vũ khí trên 300 kg và tầm bay trên 300 km) và bị hạn chế xuất khẩu nghiêm ngặt. 

Các nhà sản xuất UAV Mỹ gặp cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc hay Israel, những nước không ký MTCR và dễ dàng xuất khẩu các UAV. Thổ Nhĩ Kỳ ký MTCR vào năm 1997 nhưng vẫn có thể xuất khẩu Bayraktar TB2 vì mẫu này có tầm bay ngắn hơn, nhẹ hơn và được xếp vào phân hạng khác so với mẫu UAV hạng nặng như MQ-9 của Mỹ, vốn chỉ được xuất khẩu cho các đồng minh thân thiết tại châu Âu hay Nhật Bản.

Nhờ không bị ràng buộc, Trung Quốc đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. Các mẫu Wing Loong II (thời gian bay 32 giờ, tải trọng 480 kg) và Wing Loong III (40 giờ, tầm bay 10.000 km) của Trung Quốc cạnh tranh trực tiếp với MQ-9, với chi phí chỉ bằng 1/10 đến 1/20.

Dòng CH-4, được xuất khẩu rộng rãi, trở thành lựa chọn lý tưởng cho các quốc gia như Ả Rập Xê Út, Ai Cập và Pakistan, nơi không thể tiếp cận công nghệ Mỹ do hạn chế chính trị hoặc MTCR. Trung Quốc còn tận dụng chiến lược hợp nhất dân sự-quân sự để sản xuất hàng loạt và chuyển giao công nghệ, giúp các nước này nhanh chóng triển khai UAV.

Theo chuyên san Army Recognition, thành công của Trung Quốc dựa trên 3 yếu tố là giá rẻ, tốc độ chuyển giao nhanh và ít điều kiện chính trị kèm theo. Việc này đã giúp Bắc Kinh thu hút nhiều khách hàng tại Trung Đông, châu Phi và Nam Á.

Ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio mới đây đã quyết định thay đổi cách diễn giải chính sách kiểm soát xuất khẩu, theo đó sẽ coi các UAV như là máy bay tiêm kích thay vì như hệ thống tên lửa như trước đây. Quyết định được công bố vào ngày 15.9, giúp Mỹ không còn chịu ràng buộc của MTCR trong việc xuất khẩu các UAV hạng nặng nữa.

Ngay lập tức, Mỹ công bố phê duyệt hợp đồng bán hơn 100 chiếc MQ-9 cho Ả Rập Xê Út, theo Reuters. Các mẫu khác như MQ-1C Gray Eagle (máy bay giám sát và hỗ trợ chiến trường), RQ-4 Global Hawk (tình báo chiến lược) và MQ-25 Stingray (tiếp nhiên liệu và trinh sát) cũng được tạo điều kiện xuất khẩu sau quyết định nói trên.

Sự trỗi dậy của UAV giá rẻ

Phân khúc UAV nhỏ hơn cũng đang chứng kiến cuộc đua phát triển sôi động với nhiều bên tham gia. Cuộc xung đột tại Ukraine đã chứng minh rõ nét tính ứng dụng cao trong tác chiến hiện đại của những loại UAV cỡ nhỏ, từ những mẫu UAV cảm tử Geran (dựa trên mẫu Shahed của Iran) cho đến những chiếc UAV góc nhìn thứ nhất (FPV) được điều khiển từ xa.

Hồi tháng 6, tình báo quốc phòng Ukraine cho rằng Nga có thể sản xuất trung bình 170 chiếc Geran mỗi ngày và dự kiến gia tăng sản lượng lên 190 chiếc mỗi ngày vào cuối năm 2025, theo đài al-Jazeera. Báo The Wall Street Journal mới đây có bài viết cho rằng UAV Shahed thành công đến mức Mỹ và nhiều đồng minh phương Tây bắt đầu bắt chước để phát triển các vũ khí tầm xa, giá rẻ tương tự.

Về phía Ukraine, tính đến tháng 4, hơn 95% UAV được quân đội nước này sử dụng trên tiền tuyến được sản xuất trong nước, theo trang The Kyiv Independent. Hồi tháng 6, Bộ trưởng Quốc phòng Ukraine khi đó là ông Rustem Umerov cho biết quân đội đã nhận 1,5 triệu UAV tính đến cuối tháng 6 và các nhà sản xuất ước tính sẽ cung cấp tổng cộng 4 triệu chiếc cho tiền tuyến trong năm nay.

Về những mẫu UAV thương mại, có thể được sử dụng để thả chất nổ xuống mục tiêu hoặc tấn công cảm tử, Trung Quốc cũng được cho là đang chiếm ưu thế tuyệt đối nhờ quy mô sản xuất khổng lồ, chi phí thấp và chiến lược phát triển kết hợp dân sự-quân sự. Báo cáo của viện nghiên cứu Hội đồng Đại Tây Dương cho thấy trong năm 2023, thị trường UAV toàn cầu trị giá hơn 30 tỉ USD và dự báo tăng lên hơn 55 tỉ USD đến năm 2030. Trong đó, công ty DJI của Trung Quốc kiểm soát đến 70% thị phần trong khi nhà sản xuất Autel cũng của nước này nắm 7%.

DJI, công ty có trụ sở tại Thâm Quyến (Trung Quốc), cung cấp UAV cho những người chơi giải trí và khách hàng công nghiệp để chụp ảnh từ trên không, giao hàng và nghiên cứu thời tiết. DJI tuyên bố không phải là công ty quân sự và đã cắt đứt hợp tác với khách hàng sử dụng UAV của hãng trong xung đột vũ trang.

Sự thống trị thị trường của DJI, với sản lượng hàng triệu UAV mỗi năm, vượt xa các đối thủ, gây lo ngại tại Washington, nơi một số nhà lập pháp muốn cấm sản phẩm của họ để thúc đẩy ngành công nghiệp nội địa, theo tờ The New York Times.

Trong khi đó, Tổng thống Mỹ Donald Trump cũng trong tháng 6 đã ký 2 lệnh hành pháp nhằm xây dựng lại ngành công nghiệp UAV dân sự của Mỹ. Theo đó, một sắc lệnh chỉ thị cho nhiều cơ quan thúc đẩy xuất khẩu UAV do Mỹ sản xuất và sắc lệnh còn lại hạn chế chính phủ mua UAV liên kết với chính phủ Trung Quốc. Tuy nhiên, có không ít chuyên gia cho rằng các biện pháp này là quá chậm trễ và không đủ mạnh mẽ để xoay chuyển cục diện thị trường toàn cầu đã bị Trung Quốc chi phối trong cả chục năm.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Pete Hegseth cũng thẳng thắn thừa nhận rằng Mỹ đã bị bỏ lại phía sau và đã công bố một loạt chính sách cùng những khoản đầu tư mới cho UAV để thu hẹp khoảng cách, theo tờ Politico. "Trong khi các đối thủ của chúng ta đã sản xuất hàng triệu UAV giá rẻ mỗi năm, chúng ta lại bị sa lầy trong những thủ tục quan liêu. Điều này sẽ không tiếp diễn nữa", ông Hegseth tuyên bố hồi tháng 7.

 
 
 
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN
logo

Giấp phép đăng ký kinh doanh số 0103884103 do Sở Kế Hoạch & Đầu Tư Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Trụ sở chính: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Email: daisanjsc@gmail.com

TRỤ SỞ HÀ NỘI

Địa chỉ Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season, 47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

Fax  Fax: 045625169

CHI NHÁNH HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn