Năm 2025, sau bão là lũ lụt xảy ra với tần suất dày đặc và ghi nhận nhiều 'kỷ lục' không mong muốn.
TP Huế vừa kết thúc đợt mưa lũ lịch sử kéo dài 23 ngày với 3 trận lũ lớn, bão số 13 (Kalmaegi) gây thiệt hại nặng nề cho nhiều địa phương ven biển khu vực tỉnh Đắk Lắk (Phú Yên cũ) và Gia Lai (Bình Định cũ).
Trao đổi với Tuổi Trẻ khi siêu bão Phượng Hoàng (Fung Wong) - cơn bão số 14 chuẩn bị đổ bộ vào đảo Luzon (Philippines), tiến sĩ NGUYỄN NGỌC HUY - chuyên gia nghiên cứu biến đổi khí hậu và quản lý rủi ro thiên tai - khẳng định:
"Nguyên nhân gốc rễ vẫn là sự nóng lên của Trái đất, nhiệt độ toàn cầu tăng khiến hệ thống khí hậu mất ổn định, bề mặt biển nóng lên tạo cơ hội nuôi dưỡng các áp thấp nhiệt đới và các cơn bão nhiều hơn, tạo nên những rủi ro thiên tai ngày càng lớn hơn về cường độ và với tần suất nhiều hơn".
Thiên tai cực đoan vượt ngưỡng chịu đựng
* Ông có thể nói rõ hơn nguyên nhân của việc hình thành kiểu thời tiết cực đoan như hiện nay?
- Về mặt khoa học, có thể hiểu hệ thống khí hậu được thiết lập hàng triệu năm nay có một tính ổn định nhất định, như theo chu kỳ mùa và theo các vùng mang khí hậu trên Trái đất, có các đới gió mùa được gọi là "tín phong".
Vốn dĩ, các đới gió mùa này được gọi bằng chữ "tín" bởi sự ổn định, đến thời điểm thì lại quay về. Nhưng gần đây, các đới gió mùa này không còn "tín" nữa.Chúng đi về một cách trái với quy luật nhiều hơn. Đó cũng là hệ quả phát sinh của những bất ổn, rối loạn trong hệ thống khí hậu.
Bên cạnh đó là sự chuyển pha liên tục giữa El Nino và La Nina với tuần suất dày cũng khiến hệ thống khí hậu mất ổn định hơn, tạo ra những đợt thời tiết cực đoan ngày càng vượt các kỷ lục so với trước.
* Nếu các trận mưa bão kéo dài gần đây là một "phép thử" mới về khả năng chống chịu trước thiên tai cực đoan, thì chúng ta thấy được điều gì, thưa ông?
- Như đợt mưa lớn tại phía tây TP Đà Nẵng (Quảng Nam cũ) liên tục với tổng lượng mưa tích lũy đo được phổ biến từ 1.000 - 1.400mm, có trạm như Trà Giáp đo được lượng mưa tích lũy là 1.523mm trong các ngày từ 26 đến 31-10.
Lượng mưa lớn này khiến tất cả hồ chứa lớn ở thượng nguồn đều trong tình trạng đầy hồ và các hồ chứa thủy điện mất khả năng cắt lũ cho hạ du. Điều này khiến mực nước sông Vu Gia và Thu Bồn liên tục phá vỡ các đỉnh lũ lịch sử năm 2017 và năm 1963.
Hoặc như ở TP Huế, lượng mưa trung bình hằng năm là từ 2.700 - 3.800mm tùy vùng. Các thiết kế hạ tầng vốn chỉ có thể tính toán theo tổng lượng mưa trung bình hằng năm tối đa khoảng 4.000mm, với mưa cực đoan tối đa 1.000mm mỗi đợt. Nhưng vừa qua, chỉ trong 13 ngày tính từ 22-10 đến 3-11, tổng lượng mưa tích lũy ở phía tây của TP Huế ở mức phổ biến trên 2.000mm đến 3.000mm/đợt.
Trong đó, cá biệt có trạm đo mưa ở đỉnh Bạch Mã đã ghi nhận tổng lượng mưa hơn 6.300mm trong vòng 13 ngày, bằng lượng mưa thông thường của cả 2 năm trời. Đỉnh Bạch Mã cũng ghi nhận lượng mưa trong ngày lớn thứ 2 thế giới ở mức 1.739,6mm trong một ngày 27-10.
Đây là lượng mưa mà không hạ tầng nào chống chịu nổi và lũ lụt là điều tất yếu xảy ra. Chúng ta chỉ có thể vận hành hồ chứa linh hoạt để giảm thiệt hại chứ không thể "chống lũ" với lượng mưa lớn cực đoan như thế này.
Hoặc ở các trung tâm đô thị, chúng ta có thể thiết kế hệ thống thoát nước khoảng 60 - 80mm trong vòng 2 giờ chẳng hạn. Nhưng khi xảy ra mưa cục bộ trên 100mm trong 2 giờ thì chắc chắn sẽ phải ngập.
* Như vậy có thể hiểu sức tàn phá của thiên tai đã vượt quá "sức chịu đựng" của hệ thống cơ sở hạ tầng hiện tại?
- Những thực tế đã xảy ra cho thấy chúng ta rất khó để "đu" theo trong việc thiết kế hạ tầng, không thể xây dựng một hạ tầng đô thị ở mức "cỡ nào cũng chịu được".
Cần phải hiểu, hạ tầng của chúng ta hình thành từ những quy hoạch có thể từ cách đây 50 năm, 30 năm hoặc ít nhất cũng 20 năm nay. Nhưng thiên tai trong vòng 15 năm nay có tính cực đoan hơn và có tần suất dày hơn trước.
Khi bắt đầu quy hoạch phát triển hạ tầng, thông tin về kịch bản biến đổi khí hậu lúc đó chưa có, hoặc khó có thể tính được hết tính cực đoan khí hậu mà bây giờ chúng ta đang trải qua.
Như trường hợp các hồ chứa chẳng hạn, khi gặp lượng mưa lớn cực đoan vượt cao hơn những tính toán ở thời điểm xây dựng, nhiều hồ chứa chỉ có thể xả liên tục, dẫn đến việc mất luôn chức năng kiểm soát lũ.
Dự báo ra sao khi thời tiết "bất thường, khó đoán"?
* Chúng ta nên làm gì để đối mặt với sự cực đoan, khó lường của thời tiết một cách tốt hơn, thưa ông?
- Theo tôi, việc ngày càng nâng cao về khả năng phân tích, dự báo, nhận định về rủi ro thời tiết và tôn trọng dự báo, tôn trọng các kịch bản về biến đổi khí hậu vẫn là việc rất cần thiết và quan trọng để ứng phó hiện nay, cũng như xây dựng các kịch bản phát triển hạ tầng cho thích ứng trong tương lai.
* Ông vừa nhắc đến việc nâng cao dự báo rủi ro về thiên tai. Liệu chúng ta có thể dự báo đến mức nào trong khi như đã nói "thời tiết cực đoan ngày càng bất thường, khó đoán"?
- Trước hết phải nói là ngay cả khi có một mô hình dự báo có thể nói là tốt nhất thì nó vẫn có sai số. Cùng một thời điểm, các mô hình dự báo được xem là mạnh hay uy tín cũng có những kịch bản khác nhau, thậm chí khác xa nhau.
Ngay cả những quốc gia như Mỹ, Nhật Bản, Đức... đã đầu tư hệ thống cảnh báo rất hiện đại mà đôi khi vẫn gặp phải những tình huống bất ngờ với thiên tai.
* Với tần suất và cường độ mưa bão dồn dập như hiện nay, ông có lời khuyên nào cho người dân, đặc biệt là những khu vực thường xuyên hứng chịu mưa bão như ở khu vực miền Trung?
- Trong đợt bão số 13 vừa qua chẳng hạn, hình ảnh đau xót về những con thuyền ngổn ngang, tan nát của làng chài trên bãi biển sau cơn bão cho thấy vẫn còn một lỗ hổng quá lớn về đánh giá rủi ro thiên tai, ngay cả khi chúng ta đã có những bài học đắt giá trước đó về những con tàu đắm ngay tại bờ trong bão Damrey 2017 đổ bộ vào tỉnh Khánh Hòa hay bão Yagi 2024 đổ bộ vào tỉnh Quảng Ninh.
Ngư dân có thể tốn tiền dầu chạy khỏi vùng nguy hiểm và có thể sóng không cao như dự báo, có thể hụt hẫng khi mất công chạy hàng trăm hải lý tránh sóng và gió... nhưng ít nhất họ bảo vệ được tài sản của họ, kế sinh nhai của họ. Vấn đề làm sao họ có thể đưa ra quyết định đúng đắn nhất dựa trên dự báo và cảnh báo. Dẫu biết, nếu cảnh báo chi tiết quá mà sai theo hướng "nói quá lên" thì cũng gây ra thiệt hại và tâm lý hoang mang.
Hiện nay các mô hình dự báo và các hệ thống cảnh báo đã tốt hơn trước đây nhưng tính bất ổn định của hệ thống khí hậu và thời tiết cực đoan cũng gia tăng. Ngay cả khi các dự báo và cảnh báo được cải thiện thì vẫn có những tình huống khó lường, đặc biệt là tình huống thiên tai vượt ngưỡng chịu tải của hạ tầng.
Khi đó, người dân cần đánh giá được khu vực của họ có an toàn hay không? Căn nhà của họ có an toàn hay không? Và tài sản của họ có an toàn hay không? Từ đó, họ có thể ra quyết định cho các phương án ứng phó ưu tiên.














