Tăng cho vay phải giữ giá cả

Chính phủ vừa giao Ngân hàng Nhà nước quyết liệt, chủ động điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 2025 cho phù hợp với mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8,3 - 8,5%, kiểm soát lạm phát dưới 4,5%.
Đồng thời giao Bộ Tài chính xây dựng kịch bản tăng trưởng những tháng cuối năm theo chỉ tiêu đã giao trước ngày 15-8.
Các chuyên gia khuyến nghị cần có giải pháp cân bằng để bảo đảm ổn định vĩ mô, thúc đẩy sản xuất, hỗ trợ doanh nghiệp tiêu thụ được sản phẩm. Có như vậy việc tác động của tăng tín dụng mới hỗ trợ được tăng trưởng bền vững, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
Sức ép lạm phát đến đâu?
Bàn về sức ép tăng lạm phát khi nới tín dụng ngân hàng, TS Nguyễn Bích Lâm, nguyên tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê), nêu quan điểm: "Có thể thấy đa số người dân vẫn trong trạng thái chắt chiu, chi tiêu dè sẻn vì thu nhập cơ bản không tăng".
Ông Lâm kể một quản lý của Co.opmart tính toán để tổng mức bán lẻ năm nay tăng 12% thì những mặt hàng của hệ thống siêu thị này phải tăng 18 - 20%. Nhưng các mặt hàng bán lẻ của hệ thống siêu thị Co.opmart, theo vị này, năm nay chỉ tăng tối đa 14 - 15%.
Bên cạnh đó, một số khảo sát tiêu dùng thời gian qua ghi nhận quan tâm đầu tiên của người tiêu dùng là nguồn tài chính có hay không để chi tiêu. Nói cách khác, tài chính của nhiều hộ gia đình hiện nay eo hẹp nên họ chưa thể mở rộng chi tiêu được.
"Vì thế, tổng cầu năm nay rất khó tăng mạnh nên áp lực lạm phát sẽ không quá lo ngại, còn lạm phát từ yếu tố tiền tệ sẽ có độ trễ", ông Lâm cho biết thêm.
Cùng quan điểm này, TS Nguyễn Quốc Việt, nguyên phó viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (Đại học Quốc gia Hà Nội), cho rằng áp lực lạm phát hiện nay không phải lạm phát thông thường (bao gồm giá thực phẩm, năng lượng thường xuyên biến đổi).
Vấn đề nhiều người lo ngại khi "bơm tiền" ra lúc này là tỉ giá của VND so với USD và ngoại tệ của một số nước trong khu vực như Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Singapore, tiền đồng có xu hướng mất giá khá nhiều so với cùng kỳ 2024.
Trong khi nền sản xuất của chúng ta phụ thuộc nhập khẩu nguyên, phụ liệu đầu vào khá lớn nên gặp bất lợi tỉ giá.
Trong bối cảnh này, ông Việt cho rằng vẫn phải thận trọng bởi khi áp lực mất giá đồng nội tệ đến một mức nào đó sẽ đẩy vào giá cả hàng hóa tăng.
Đây là chi phí đẩy khi nền sản xuất của chúng ta nhập khẩu nguyên, nhiên liệu đầu vào lớn. Ngoài nhập khẩu phục vụ cho xuất khẩu, chúng ta còn nhập khẩu phục vụ cho tiêu dùng trong nước, làm tăng áp lực lạm phát.
Ngoài ra, ông Việt lưu ý nếu tín dụng tăng nhưng không vào sản xuất kinh doanh, nhất là khu vực sản xuất nội địa, sẽ có nguy cơ tạo bong bóng tài sản, bong bóng bất động sản, găm giữ vàng và USD... gây áp lực lên tỉ giá từ nay đến cuối năm.
Khi xuất hiện bong bóng tài sản thì một số hàng hóa trong rổ CPI (lạm phát) sẽ tăng theo, gây áp lực lạm phát cuối năm.
"Ví dụ như bong bóng bất động sản đã gây áp lực làm tăng giá thuê nhà, người thuê phải chịu áp lực lớn hơn, phải bỏ nhiều tiền hơn để thuê nhà hằng tháng. Tháng 7 vừa qua nhóm hàng hóa - dịch vụ xây dựng, sửa chữa, thuê nhà đã tăng lên, tác động làm tăng lạm phát", ông Việt dẫn chứng.
Vốn phải vào sản xuất
Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Đỗ Thiên Anh Tuấn, giảng viên Đại học Fulbright Việt Nam, cho rằng trong bối cảnh hiện nay chúng ta không nên quay lại mô hình tăng trưởng 2007 - 2009, không nên dựa quá nhiều vào vốn.
Khi đó, chúng ta ép tăng tín dụng 40% để có tăng trưởng cao, nhưng thời điểm hiện nay cần rất thận trọng với rủi ro bất ổn vĩ mô, mất giá đồng tiền.
Điều quan trọng nhất lúc này là tăng trưởng tín dụng phải đi vào sản xuất, tiếp vốn cho lĩnh vực kinh tế thực.
Tăng trưởng tín dụng năm nay có thể lên tới 20% nhưng phải đi vào sản xuất, giải quyết được bài toán vốn cho sản xuất, thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao.
Trong khi đó, TS Nguyễn Bích Lâm nói nếu nới trần tín dụng để thúc tăng trưởng kinh tế thì có thể sẽ phải đánh đổi, chấp nhận lạm phát ở mức cao hơn mục tiêu 4,5% đề ra. Rất khó để cùng một lúc đạt được cả hai mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và giữ lạm phát thấp đúng mục tiêu đề ra.
Điều ông Lâm lo ngại là khu vực sản xuất thực không hấp thụ vốn như kỳ vọng khi hệ thống ngân hàng nới tăng trưởng tín dụng.
"Nếu đưa được tín dụng vào sản xuất thì mức tăng trưởng tín dụng 16% mà Ngân hàng Nhà nước đề ra hồi đầu năm cũng là một thành công.
Ngược lại, để tín dụng chảy vào các lĩnh vực khác như đầu tư bất động sản, chứng khoán, vàng thì rất dễ đạt được mục tiêu tăng tín dụng cao nhưng tiềm ẩn rủi ro vĩ mô", ông Lâm nhận định.
Từ góc độ vĩ mô, ông Lâm chia sẻ tổng cầu của nền kinh tế trong nước và thế giới từ đầu năm đến nay phục hồi chậm, chưa như kỳ vọng nên nhu cầu mở rộng sản xuất của doanh nghiệp trong nền kinh tế không lớn.
Như vậy, nhu cầu vay tín dụng để sản xuất của doanh nghiệp lúc này nhiều khả năng không cao.