Nhảy đến nội dung
 

'Súy Vân' - hồn cốt nghệ thuật chèo

Tại tọa đàm kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Nhà giáo Nhân dân, nhạc sĩ Hoàng Kiều (1925-2025), hôm 9/8, nhiều nghệ sĩ nhắc về những đóng góp lớn của ông, trong đó có việc tạo nên bước đột phá cho âm nhạc chèo qua tác phẩm Súy Vân.

Vở do Hàn Thế Du chấp bút, từ tích trò cổ Kim Nham, Nghệ sĩ Nhân dân Trần Bảng đạo diễn. Ở bản cải biên, nhân vật trung tâm là Súy Vân, bất hòa với Kim Nham do không chấp nhận việc chàng muốn lấy thêm vợ lẽ. Nàng bị Trần Phương mồi chài, giả dại bỏ chồng để theo hắn. Cuối cùng, Súy Vân bị hắn bỏ rơi, đau khổ tìm đến cái chết. Trong tác phẩm, hình tượng phụ nữ mang tính hiện đại, thể hiện khát vọng được yêu, dám đấu tranh phản đối thói đa thê ở xã hội cũ.

Âm nhạc trong vở diễn mang tính cách tân song vẫn giữ vững hồn cốt của chèo. Nghệ sĩ Lê Tuấn Cường - quyền Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam - nhận định phần nhạc trong Súy Vân là hiện tượng của âm nhạc chèo thế kỷ 20. Anh phân tích cảnh đầu tiên khi nhân vật dệt cửi và hát điệu Tò vò, nhạc sĩ Hoàng Kiều đã sáng tác trên phức điệu, kế thừa, phát triển từ truyền thống. Ông hòa âm, phối khí chia hơi, quãng, cung bậc của giọng. Phần chia bè giúp điệu hát truyền tải những khắc khoải của người phụ nữ bao năm mong ngóng chồng dùi mài kinh sử trở về.

Nghệ sĩ Nhân dân Thanh Ngoan cho biết việc sử dụng bè phối là điểm nhấn sáng tạo của nhạc sĩ Hoàng Kiều. Trước đây truyền thống hát chèo thường là nam ''vói'', nữ ''luồn'', có nghĩa lối hát đơn tuyến, thiên về đơn âm. Ở Súy Vân, tác giả Hoàng Kiều chủ động phối bè từ các phần hát chính, mở đầu cho cách tiếp cận đa thanh, đa tầng trong âm nhạc chèo hiện đại.

Phần bè không chỉ chia hai lớp, một là theo giai điệu chính của Súy Vân, hai là cao trào mà còn được sắp đặt để tạo hiệu ứng như các đợt sóng ngầm. ''Những bè nữ khi hòa vào đoạn solo của Súy Vân giúp tô điểm, như tiếng nói nội tâm vọng lại, làm sâu sắc thêm cuộc đấu tranh bên trong nhân vật'', nghệ sĩ Thanh Ngoan viết. Vẫn ở điệu Tò vò, cách xử lý của Hoàng Kiều khiến người xem cảm nhận tiếng lòng của nhiều phụ nữ trong xã hội phong kiến, một lòng chờ đợi chồng trong mòn mỏi.

Thanh Ngoan nhớ ban đầu đưa dàn đồng ca hỗ trợ giai điệu chính, chị và các diễn viên còn bối rối. Khi được học và thực hành, chị mới hiểu giá trị của việc phối bè. Nghệ sĩ cho rằng điều này không làm mất đi chất chèo cổ. Ngược lại, sự hòa quyện đó làm tăng chiều sâu cảm xúc, tính biểu tượng. Nghệ sĩ ấn tượng cách ông hòa quyện âm nhạc vào kịch bản, lời ca, tính cách nhân vật, ngôn ngữ biểu cảm, khiến nhiều lúc chị nghĩ mình đang diễn một vở chèo cổ, không phải tác phẩm được sáng tác theo lối mới.

Theo Thanh Ngoan, trong chèo cổ, phần nhạc thường chỉ tấu trống, phách hoặc các làn điệu dân gian có sẵn. Ở Súy Vân, nhạc sĩ Hoàng Kiều đã đưa vào nhạc không lời (nhạc nền), kết hợp giữa cấu trúc âm nhạc hiện đại và tinh thần dân tộc. Nhạc sĩ Khắc Hiển - nguyên Giám đốc Nhà hát Chèo Hà Nam - nhận định phần nhạc của vở diễn là ''bản giao hưởng bất hủ của hồn dân tộc Việt''. Phân đoạn Súy Vân giả dại được ông cho là ''tuyệt tác về biểu cảm và xử lý âm thanh, thể hiện chiều sâu tâm lý nhân vật qua từng nhấn nhá, luyến láy, đối thoại tinh tế giữa giọng hát và nhạc cụ truyền thống''.

Nhân vật Súy Vân gắn liền nhiều thế hệ nghệ sĩ, trong đó có Nghệ sĩ Nhân dân Thúy Ngần. Hơn 40 năm gắn bó chèo, chị vẫn ''nổi da gà'' khi tiếng nhạc của vở vang lên. Nghệ sĩ viết trong tham luận: ''Âm nhạc của vở Súy Vân tròn trĩnh đến mức gần như không có chút tì vết nào. Bè một, bè hai thể hiện nỗi buồn miên man, buồn không có bờ có bến của nhân vật''. Chị đề cập đoạn ông dùng âm nhạc tả nhân vật ở thế tiến thoái lưỡng nan: ''Đi thì mắc núi mà trở lại thì mắc sông'', thể hiện nỗi bất lực của người đàn bà thời phong kiến. Nhiều thế hệ diễn viên đầu của Nhà hát Chèo Việt Nam ấn tượng cách nhạc sĩ Hoàng Kiều tạo ra bước ngoặt làm mới âm nhạc cho vở chèo, giúp Súy Vân giữ sức sống đến ngày nay.

Nhạc sĩ Hoàng Kiều tên thật Tạ Khắc Kế, sinh tại Kim Động, Hưng Yên. Ông tu nghiệp tại Vũ Hán, Trung Quốc từ năm 1950 đến 1953, sau đó công tác tại Đoàn Văn công Nhân dân Trung ương. Năm 1956, ông phụ trách Ban Nghiên cứu Nhạc Múa Bộ Văn hóa - Thông tin. Ông còn giữ nhiều chức vụ khác sau đó như Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam, Hiệu trưởng Trường Trung cấp Nghệ thuật Sân khấu Bộ Văn hóa - Thông tin, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh kiêm Chủ nhiệm Khoa Kịch hát dân tộc. Năm 1989, nhạc sĩ về hưu. Ông qua đời năm 2017 vì bệnh tuổi già.

Hoàng Kiều là một trong những tác giả tiên phong trong việc thể nghiệm, cải biên, viết nhiều bè cho hát chèo. Ngoài ra, nhạc sĩ sáng tác trong lĩnh vực sân khấu kịch hát truyền thống, với nhiều tác phẩm về đề tài cách mạng như Máu chúng ta đã chảy (1963), Bố con người gác đèn (1969), Những cô gái mặt đường (1969), Cô hàng rau (1980). Ông là tác giả của một số bản khí nhạc như Dòng sông hồng (1963) và nhạc múa như Vui sản xuất (1954), Trống ngũ lôi (1950).

Nhạc sĩ viết kịch bản của nhiều vở chèo và cải lương gồm Thiên kim tình hận, Nữ tú tài, Khát vọng ngông cuồng. Ở lĩnh vực nghiên cứu, lý luận và phê bình sân khấu, ông có nhiều công trình là Sử dụng làn điệu chèo (1974), Thanh điệu tiếng Việt và âm nhạc cổ truyền (2001), Tìm hiểu các làn điệu chèo cổ (2001), Lịch sử sân khấu chèo và phát triển (2009).

Phương Linh

 
 
 
logo
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN

GPĐKKD: 0103884103 do sở KH & ĐT TP Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Địa chỉ: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season,  47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

MIỀN BẮC

Địa chỉ Showroom: D11-47 KĐT Geleximco Lê Trọng Tấn, Hà Đông, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

MIỀN NAM

Địa chỉ VPGD: 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn