Mưa ầm ầm đổ xuống bản Nong. Từng ánh chớp như lưỡi dao phạt vào bầu trời tối đen, chẻ toạc cả một khoảng rừng Pia phía xa.
"Suối Lia nước cao lắm. Tối nay anh ngủ lại trong chòi canh rẫy của già Rim. Hai mẹ con yên tâm nhé!". A Kơ Rip gọi cho vợ lúc chiều đã muộn, khi mưa mỗi lúc một nặng. A Sir nghe giọng chồng rè rè, chìm trong tiếng mưa gió bạt qua mái lá nhà sàn.
Cả tuần nay trời mưa. Trong bản chỉ vài người lên rẫy hái măng rơ liu. Không có nắng, A Sir phải thổi lửa, đốt than để sấy măng suốt ngày đêm. Những ngày nắng to, chỉ cần phơi ba nắng là những lá măng đã vàng ươm, dẻo khô, thơm nức mùi nắng núi. Nhưng cô cũng thích mùi măng rơ liu sấy trên lò củi. Lát măng sậm màu mật, đượm mùi ngai ngái của than hồng.
Lúc sáng, vừa thấy trời tạnh ráo, A Kơ Rip liền mang gùi lên rẫy bẻ măng. "Không thể đợi đến ngày nắng to được. Đừng để khách chờ A Sir ạ. Người ta thương A Sir mới mua hàng đó thôi", A Kơ Rip cười với vợ khi đi về phía chân núi Pia.
Suốt đêm, A Sir mơ màng trong tiếng sấm rền. Cô thấy mình chạy về phía núi Pia, trong buổi chiều chập choạng. Mưa xối xả trút trên đầu. Chân trần đạp lên những gai nhọn, tứa máu. Gương mặt cha xám màu trời. Bộ quần áo tả tơi chìm trong bùn. Một khúc suối Lia ở đoạn vắt qua chân đồi Xiêng đã neo giữ cha ở lại đó. Chiếc gùi trên lưng ông vẫn còn sót lại đọt măng trên đỉnh ngọn Pia.
Từ bản Nong nhìn lên phía núi Pia, có thể thấy một vệt dài vàng màu nắng như giọt nước mắt của núi. Đôi khi A Sir nghĩ, không biết cha còn đứng trên đỉnh đồi, dưới những rặng tre rơ liu xanh ngát, hay đang loanh quanh đâu đó ở góc suối Lia. Cũng có thể ông đang rong chơi dưới tán rừng già, nơi người của bản ngàn đời nay an nghỉ.
Mỗi khi nhớ cha, A Sir hay nghĩ đến những ngọn đồi trọc trải dài quanh bản, nghĩ về cây tre rơ liu trên đỉnh ngọn Pia. "Sao phải lên tận đỉnh Pia để lấy rơ liu? Đưa cây rơ liu về gần bản là được rồi?".
Bảy năm trước, khi biết A Sir định đưa cây rơ liu trên đỉnh ngọn Pia về trồng dọc sườn đồi, già Rim đã trầm ngâm rất lâu: "Măng rơ liu trên núi quen sương quen đá, đem về đồi sợ cây không sống nổi. Hồi trước nhiều người thử rồi, cây chết sạch".
A Sir nhìn lên ngọn núi Pia bị mây bao bọc quá nửa. Mùa thu, màu xanh của núi như nhạt hơn. Những lớp sương quyện chặt vào đỉnh núi tựa tấm khăn quàng trên cổ bà A Cơ Cát trong những đêm mùa đông lạnh lẽo.
Hằng năm, khi lá cây xăm lang trên núi chuyển sang vàng rực cũng là lúc ngọn gió thu kéo về núi, đàn ông trong bản sẽ chuẩn bị gùi lên núi lấy măng rơ liu.
A Sir hay nghĩ, liệu có đứa trẻ nào trong bản Nong cũng sẽ giống như cô, chưa kịp mặc chiếc áo mới đổi từ gùi măng rơ liu cha lấy từ đỉnh núi cao, đã phải mồ côi mãi mãi.
Chàng trai bản hỗ trợ A Sir nhiều nhất trong dự án phủ xanh những đồi trọc bằng tre rơ liu cũng chính là chồng A Sir bây giờ.
Người trong bản khi lên nương, ngang qua đồi rơ liu đều lắc đầu: "Măng rơ liu phải sống trên đỉnh núi cao. Nơi mây núi có thể chạm lên ngọn lá, rễ cây chạm vào đá sâu mới tạo nên vị thơm ngọt đặc biệt. Măng rơ liu trồng trên đồi thấp thì không còn là măng rơ liu nữa rồi".
Một năm rồi lại một năm. Mùa thu đi rồi mùa thu về, những gốc tre rơ liu thấm ánh nắng, ngậm giọt mưa, dần dần mọc lên những ngọn măng non. Nhiều gốc rơ liu tưởng đã chết khô, chết héo dưới nắng hè, thu đến lại nhú lên một chồi măng.
Có hôm, A Sir ra ngồi trên đồi, lặng yên ngắm nhìn nắng như bước chân đứa trẻ tung tăng nhảy chân sáo trên đồi. Nắng rớt qua lau lách, nắng chui vào đọt măng vừa đẩy cụm đất để trồi lên. A Sir như nghe thấy tiếng cây rơ liu trên đỉnh ngọn núi Pia cười trong gió ngàn ngang qua rẫy.
"Không thể hoàn toàn giống như ngọn rơ liu trên núi Pia được. Giống như con gà mình thả sau vườn không thể sánh bằng con gà sống trong rừng sâu A Sir ạ. Nhưng dân bản mình có thể trồng rơ liu quanh các sườn đồi, nương rẫy. Cây rơ liu giữ đất ở lại với núi đồi, đọt rơ liu mới lên có thể đổi được cơm áo đó A Sir". Già Rim nhấm nháp ngọn rơ liu vừa nướng chín bên bếp lửa, chấm với chút muối ớt giả cùng củ kiệu, ớt xanh và riềng rừng. Mùi thơm của đọt rơ liu nướng chín tỏa khắp cả nhà sàn, thanh mát mà ấm dịu như hương của lá cây trên núi cao len vào nhà sàn sau cơn mưa xuân ban sớm.
"Nếu nhà nào cũng trồng cây rơ liu. Đến lúc đó không có người mua như hạt ngô cất trong kho năm ấy thì phải làm sao?", bà Cha Chin trầm ngâm.
"Đã có A Sir ở đây, bản mình không sợ không bán được hàng", già Rim cười, nói với vợ.
Hạt ngô của bản bây giờ, đã được ủ thành giọt rượu ngô sóng sánh, không còn chịu cảnh được mùa không ai mua. A Sir đã thành lập Hợp tác xã rượu ngô bản Nong, giúp bà con tiêu thụ sản phẩm. Đi quanh bản, nhiều nhà khói bếp là đà neo trên ngọn cây suốt ngày đêm, mùi rượu ngô ngây ngất len trong gió.
"Chúng ta sẽ bán ngọn rơ liu tươi. Bán không hết thì mình chế biến. Sấy khô, muối chua, ngâm ớt… Mình vừa làm vừa học, luôn có cách bà Cha Chin ạ". A Sir cười, nhìn những ngọn đồi trọc phía xa xa, rồi sẽ nhanh thôi, dân bản chẳng mấy chốc mà phủ lên đó màu xanh của tre rơ liu. Chẳng phải mấy năm trước, A Sir cũng cần mẫn học từ bà Cha Chin cách nấu rượu ngô, rồi rủ chị em trong bản cùng nấu rượu, không thể để hạt ngô nằm im mãi trong kho. Chị em trong bản lúc đầu còn sợ nấu rượu ngon để trong nhà, đàn ông uống suốt ngày rồi chẳng còn tỉnh để lên nương lên rẫy. Nhưng bây giờ, hương rượu ngô đã bay xa khỏi bản Nong rồi.
Giấc mơ của A Sir là được làm cô giáo. Nhưng tấm bằng đại học sư phạm của cô đã phải cất kỹ trong chiếc hộp gỗ. Bà A Cơ Cát từng đòi bán hết đàn bò để giúp con gái kiếm việc. "Không có tiền thì không có việc đâu con ạ". A Sir không muốn mẹ mất đàn bò. Nhưng cuối cùng, những con bò cũng bị A Sir lần lượt bán đi, để những lò rượu ngô trong bản đỏ lửa suốt ngày. Những lò sấy măng được lấp đầy nhà xưởng.
"Bây giờ đã hết buồn khi nghe chị Râm bảo đi học nhiều cái chữ cũng chỉ biết về trồng ngô, nấu rượu rồi phải không?", bà Ling nói với A Sir khi đổ gùi măng xuống sân nhà cô. "Tụi nhỏ giờ cũng không đứa nào dám trêu 'Học nhiều như chị A Sir cũng trở về bản làm ruộng thôi' nữa nhỉ?". Bà Ling cười, khoe hàm răng đen nhưng nhức. Câu nói của mấy đứa trẻ từng khiến lòng A Sir chua như ngọn lá vút tring trên rừng. Cô sợ mình là "tấm gương" khiến bọn trẻ không còn háo hức với cái chữ.
Từng có những đêm dài A Sir đã mơ mình đứng trên bục giảng, cầm viên phấn trắng viết nắn nót từng chữ trên chiếc bảng đen. Giờ ra chơi, lũ trẻ chạy quanh lớp cười vang. A Sir cũng cười theo bọn trẻ, cho đến khi tỉnh giấc vì tiếng sấm núi phía góc trời. Nhưng rồi những ngày quần quật trên nương, cùng bà con chăm từng rừng rơ liu, coi sóc những nương ngô, canh củi lửa cho nồi rượu ngọt, cho mẻ măng khô dẻo, những đơn hàng đi đi về về cứ cuốn lấy A Sir, khiến giấc mơ một thời cứ như mây nhạt dần dưới nắng.
Người trong bản hay đùa, gọi nhà của vợ chồng A Sir là trung tâm của bản. Nông sản của người dân đều được tập kết về đây. Từ nơi này, A Sir cùng mọi người đóng hàng, rồi gửi đi khắp nơi. Làn gió thơm của bản Nong đã theo những cung đường ngoằn ngoèo nơi này mà tỏa đi muôn phía.
Hai vợ chồng A Sir vừa ăn xong buổi tối đã thấy vài người trong bản đến. Cũng không nhớ từ khi nào, các bà, các mẹ bắt đầu kéo sang nhà để A Sir chỉ cách viết chữ, đọc sách.
A Kơ Rip bưng ấm nước lá, rót cho mỗi người một chén. Nước sóng sánh vàng, ấm ngọt.
"Cầm cái điện thoại, mà chẳng biết đọc. Thằng con bảo người ta khen rượu ngô bản mình ngon lắm. Không biết chữ, đến trẻ con nói gì cũng chỉ biết gật thôi". Chị Râm than thở. Bây giờ, chị Râm là người hăng hái học chữ nhất. Nghe chị than thở, A Kơ Rip gật gù.
Bà Ling ngồi bên cạnh, đang cầm cây rựa gọt chiếc bút chì cũng chêm vào: "Có học vẫn hơn chứ, A Kơ Rip nhỉ. Không biết chữ, cái đầu cứ cứng như hòn đá trên núi Pia thôi. Nhờ A Sir, mà hạt ngô của bản mình mới hóa thành tiền đấy".
"Ừ, nhờ A Sir đi học về, mới dạy được người bản mình cách làm ăn. Người bản mình mới đủ cái ăn như bây giờ", chị Râm đồng tình.
A Kơ Ríp lắng nghe mọi người chuyện trò, chợt nhìn về phía A Sir vẫn còn đang loay hoay đẩy mấy thanh củi để nồi ngô chín tới. Chắc tại ánh lửa nóng quá, mà hai gò má A Sir đỏ hồng.
Trời càng về khuya, đêm ở núi như càng sâu hun hút. Chỉ còn lại tiếng đọc bài khi to khi nhỏ, vòng ra từ mái nhà trong sương.