Mật mã Ba Đình - Kỳ 2: Ông Ké ở rừng Tân Trào

'Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết dành cho được độc lập!' - câu nói ấy vừa là mệnh lệnh, vừa là lời căn dặn của Bác Hồ với đại tướng Võ Nguyên Giáp trong một căn lán nhỏ giữa rừng phách Tân Trào, Tuyên Quang.
Lán Nà Lừa (hay Nà Nưa) nằm lọt thỏm trong cánh rừng bên dãy núi Hồng. Một bên là Tuyên Quang, bên kia là Thái Nguyên. Rừng Nà Lừa mọc nhiều cây phách - một loại gây gỗ lớn thuộc họ muồng, hoa tím.
Khi tiếng ve ra rả gọi hè cũng là lúc cây phách thay lá. Chỉ một cơn gió nhẹ, rừng phách lá rơi như những hạt mưa vàng bay lả tả trong gió. Trong bài "Việt Bắc" của nhà thơ Tố Hữu có câu: "Ve kêu rừng phách đổ vàng, nhớ cô em gái hái măng một mình" chính là tả vẻ đẹp của rừng phách đầu hè.
Mệnh lệnh thiêng liêng trong cơn sốt rét rừng
Tháng 5-1945, Nguyễn Ái Quốc rời Khuổi Nặm, Pác Bó (Cao Bằng) vượt hơn 400 cây số về căn cứ địa Tân Trào, Tuyên Quang. Những ngày đầu, Người ở nhà ông Nguyễn Tiến Sự, làng Kim Long (nay là thôn Tân Lập, xã Tân Trào, Tuyên Quang).
Dân làng nhớ hình ảnh ông cụ gầy gò, ăn mặc giản dị, giọng nói trầm ấm nhưng lại chẳng biết tên. Họ hay gọi Người là "ông Ké" (tức cụ già). Mấy tuần sau, để đảm bảo an toàn, Bác nhờ ông Võ Nguyên Giáp và cán bộ Đảng ngày ấy làm cho Bác một căn lán trong rừng, cách làng chừng non một cây số.
Lán Nà Nưa được dựng tạm bằng gỗ, có sàn tre, vách nứa, mái lợp lá cọ. Bước lên 79 bậc đá, tượng trưng cho 79 mùa xuân của Người, là đến lán.
Căn lán hiện tại được dựng lại, ngoài hiên để vài cái ống bương (cây nứa to) là dụng cụ bà con trong vùng dùng để lấy nước sinh hoạt. Trước lán có cái bàn nhỏ xếp bằng mấy phiến đá. Cũng từ căn lán này, cái bàn đá này, nhiều chỉ thị, nghị quyết quan trọng, bao gồm cả "Lời kêu gọi tổng khởi nghĩa" được ra đời.
Sinh thời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thường kể lại ngày nào ông cũng làm việc với Bác trong khu rừng ấy. Những ngày gần đến thời gian quyết định chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám, Người không ra làm việc ngoài chiếc bàn đá mà nằm trong lán. Căn bệnh sốt rét rừng hành hạ. Bác hay dặn dò từ những việc rất nhỏ.
Lúc đó Người đã rất yếu, dặn dò: "Cho dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết dành cho được độc lập".
Đại tướng kể lại nhiều người nhờ dân làng tìm thầy lang bốc thuốc chữa trị cho Bác nhưng bệnh tình không thuyên giảm. Ngày ấy, có một ông lang già qua làng. Biết chuyện, ông lang đến thăm bệnh cho Bác, và nói bác đã nguy kịch, ai cũng lo lắng. Thế rồi ông lang lên rừng lấy thuốc về sắc cho Bác uống. Người khỏe lại và tiếp tục chỉ đạo cách mạng.
Theo Ban quản lý Khu di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào, sau này khi đất nước giành được độc lập, lãnh đạo Đảng, Nhà nước đi tìm nhưng không tìm được tung tích cụ lang già ngày xưa.
Đá thề và lời thề quyết tử
Cụ Hoàng Ngọc năm nay bước sang tuổi 89, là nhân chứng cuối cùng của những ngày mùa thu lịch sử năm 1945. Cụ là con cụ Hoàng Trung Nguyên, chiến sĩ liên lạc cho Bác Hồ những ngày Bác ở Tân Trào.
Cụ Hoàng Ngọc giờ tóc đã bạc trắng, răng rụng chỉ còn một chiếc, nhưng giọng nói sang sảng như kèn lệnh và đôi mắt vẫn tinh anh, minh mẫn. Cụ là thành viên Đội Nhi đồng cứu quốc được giao nhiệm vụ cảnh giới, liên lạc và nghe ngóng, chỉ điểm Việt gian.
Ngày lễ, cụ vẫn được con cháu đưa ra đình Tân Trào, nơi diễn ra Đại hội toàn quốc Đảng từ ngày 13 đến 15-8-1945 và Quốc dân đại hội trong hai ngày liền sau đó. "Kim Long có đá thạch ban, có suối tắm mát có quan triều đình", cụ Hoàng Ngọc ngâm nga câu ca dao đồng bào trong vùng coi như lời sấm truyền từ bao đời trước kể lại.
Trước đình có một phiến đá phẳng như chiếc mâm, người dân vẫn đặt mâm lễ trước khi vào đình cúng ngày lễ. Nay phiến đá đó được gọi là "đá thề". Ngày ấy, đứng bên phiến đá, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời tuyên thệ trước hơn 60 đại biểu từ khắp mọi miền Tổ quốc, trước toàn thể nhân dân địa phương và trước cả phiến đá thiêng liêng này.
Lời thề quyết tâm lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc, dù có phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng cũng không lùi bước.
"Phiến đá ấy không biết có ở đó từ đời nào. Các cụ tôi không ai biết, dân làng gọi là thạch ban vì cho rằng phiến đá được trời ban cho", cụ Hoàng Ngọc giải thích.
Cụ kể ngày diễn ra Quốc dân Đại hội, cụ và đội Nhi đồng cứu quốc được giao nhiệm vụ cảnh giới. Cụ nhớ dân làng rất nể phục ông Ké. Hôm ấy trời mưa, sân đình lầy lội, khi trước đình, ông Ké không đứng trên phiến đá mà đứng bên cạnh đọc tuyên thệ.
Phiến đá thề từ ngày ấy càng thêm linh thiêng trong tâm thức của dân làng. Hội đình ngày 4 tháng giêng hằng năm, dân làng không đặt lễ trên phiến đá nữa mà thắp hương bên cạnh.
Phiến đá ấy mộc mạc giữa sân đình mái lá chứng kiến sự thành lập của Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Phiến đá chứng kiến quy định quốc kỳ là lá cờ đỏ có ngôi sao vàng 5 cánh ở giữa và quốc ca là bài "Tiến quân ca".
Sau khi đại hội thành công, dân làng cử đoàn đi chúc mừng có phụ lão, thanh niên, phụ nữ, thiếu niên mang theo gạo, gà và bò để chúc mừng. Cậu bé Hoàng Ngọc là một trong bốn thiếu niên được giao nhiệm vụ vừa chăn trâu vừa canh người lạ vào làng.
"Ông Ké cảm ơn dân làng Kim Long đã ủng hộ cách mạng sau đó nhìn bốn đứa chúng tôi gầy gò, quần áo rách, vá tứ tung. Người tiến lại gần xoa đầu và nói với đại hội: Chúng ta phải làm thế nào cho các cháu đây có cơm ăn, áo mặc và được học hành", cụ Hoàng Ngọc xúc động kể.
Mãi tới tận sau đó một năm, trong dịp rước ảnh Chủ tịch về làng, người Kim Long mới xúc động biết hóa ra Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là... ông Ké thân thương ở làng mình.
***************
Cây đa Tân Trào, biểu tượng của khí thế cách mạng và sự đoàn kết toàn dân, mở đầu cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Dưới bóng cây đa này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đọc "Bản quân lệnh số 1", chính thức phát đi lời hiệu triệu toàn dân tộc đứng lên Tổng khởi nghĩa.
>> Kỳ tới: Bản quân lệnh dưới gốc đa