Đại biểu Quốc hội: 'Nghị quyết 71 là văn kiện vượt trội'


"Ngành giáo dục đang đứng trước cơ hội chưa từng có. Chưa bao giờ giáo dục và đào tạo được Đảng, Nhà nước quan tâm và kỳ vọng nhiều như hiện nay", đó là chia sẻ của Bộ trưởng GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn trước năm học mới 2025-2026.
Sự quan tâm, kỳ vọng đó được thể hiện qua hàng loạt chính sách. Trong đó, quan trọng nhất là việc Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết 71 về đột phá phát triển giáo dục đào tạo.
Trao đổi với Tri Thức - Znews, bà Nguyễn Thị Việt Nga, Ủy viên Ủy ban Văn hoá - Xã hội của Quốc hội, nhấn mạnh Nghị quyết 71 có thể coi là một bước ngoặt mang tính cột mốc trong lịch sử phát triển giáo dục Việt Nam.
Song, để đi đến thành công, vấn đề không chỉ nằm ở những mục tiêu, con số, chính sách cụ thể, mà quan trọng hơn chính là cách tiếp cận, triết lý và sự kiên trì thực hiện.
![]() |
Bà Nguyễn Thị Việt Nga nhấn mạnh Nghị quyết 71 có thể coi là một bước ngoặt mang tính cột mốc trong lịch sử phát triển giáo dục Việt Nam. Ảnh: NVCC. |
Văn kiện “vượt trội” so với các chính sách trước đây
- Nghị quyết 71 được coi là cột mốc chiến lược, tạo đột phá về tư duy và thể chế cho giáo dục Việt Nam. Bà đánh giá như thế nào về sự đột phá về tư duy trong văn kiện này, có điểm gì khác so với các với các nghị quyết, chính sách giáo dục trước đây?
- Đột phá quan trọng nhất nằm ở sự thay đổi về tư duy. Nếu như trước đây, các nghị quyết về giáo dục thường nhấn mạnh vai trò quốc sách hàng đầu, chú trọng vào nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, thì Nghị quyết 71 lần này đặt giáo dục vào vị trí trung tâm của toàn bộ chiến lược phát triển đất nước, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công...
Sự khác biệt đầu tiên là tư duy liên thông và tích hợp. Giáo dục không còn đứng độc lập, mà được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Điều này cho thấy nhận thức mới rằng để đất nước có thể bứt phá trong thời kỳ mới, giáo dục phải là nền tảng, đồng thời cũng là động lực của phát triển tri thức và công nghệ.
Thứ hai, Nghị quyết 71 đột phá ở tư duy toàn cầu hóa. Văn kiện khẳng định phải quốc tế hóa nền giáo dục, coi trọng liên thông với các hệ thống đào tạo tiên tiến trên thế giới, đồng thời phải bảo đảm bản sắc văn hóa dân tộc.
Đây là tư duy mới, vượt lên trên khái niệm hội nhập đơn thuần để tiến tới một nền giáo dục tương tác và cạnh tranh toàn cầu.
Thứ ba, Nghị quyết 71 nhấn mạnh chuyển đổi số là phương thức phát triển, chứ không chỉ là công cụ hỗ trợ. Trong các nghị quyết trước đây, số hóa thường được coi như một hướng đi bổ sung.
Lần này, Bộ Chính trị xác định chuyển đổi số là trục xuyên suốt để đổi mới quản trị, phương pháp dạy - học, hệ thống đánh giá, học liệu mở, qua đó hình thành nền giáo dục số, công dân số và xã hội học tập số.
Cuối cùng, điểm đột phá về tư duy thể hiện ở việc coi giáo dục không chỉ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là nền tảng để củng cố độc lập, tự chủ, nâng cao sức mạnh nội sinh của quốc gia.
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, giáo dục không chỉ đào tạo nhân lực, mà còn trực tiếp tham gia bảo vệ lợi ích chiến lược của đất nước.
Như vậy, có thể nói Nghị quyết 71 là một văn kiện “vượt trội” so với các chính sách trước đây khi đổi mới tư duy một cách toàn diện - từ triết lý, mục tiêu, phương thức, đến việc đặt giáo dục trong tương quan quốc tế và công nghệ.
Nghị quyết đủ mạnh để tháo gỡ
- Nghị quyết 71 đã mang đến một tư duy đột phá về giáo dục. Tuy nhiên, liệu những giải pháp về đãi ngộ giáo viên, đầu tư cơ sở vật chất, chi cho giáo dục... có đủ sức mạnh để biến tư duy mới thành hành động và tạo ra những thay đổi rõ rệt trong thực tế?
- Trong nhiều năm, giáo dục Việt Nam vấp phải những điểm nghẽn lớn. Chúng ta có chủ trương đúng, có nỗ lực lớn, nhưng kết quả chưa tương xứng kỳ vọng.
Nguyên nhân chính là những “nút thắt” kéo dài: Cơ sở vật chất thiếu thốn, chênh lệch vùng miền; chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng đối với đội ngũ nhà giáo; nguồn lực đầu tư cho giáo dục đại học chưa tương xứng với vai trò trụ cột; việc thực hiện nhiều khi còn dàn trải, thiếu trọng tâm.
Điểm đặc biệt của Nghị quyết 71 là Bộ Chính trị xác định các giải pháp mang tính tổng thể, đồng bộ và đủ mạnh để tháo gỡ, bao gồm ba nhóm chính.
Một là giải quyết căn cơ về thể chế. Nghị quyết 71 đặt mục tiêu hoàn thiện hệ thống pháp luật về giáo dục, bảo đảm tính ổn định lâu dài, khắc phục tình trạng thay đổi manh mún. Khi hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch, các chính sách về tài chính, nhân sự, chương trình, kiểm định… sẽ đi vào thực tiễn thuận lợi hơn.
Hai là tăng đầu tư và ưu tiên nguồn lực. Lần này, nghị quyết khẳng định phải nâng cao tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục, đồng thời đa dạng hóa nguồn lực xã hội. Đặc biệt, có định hướng đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục mầm non, phổ thông ở vùng khó khăn, đồng thời ưu tiên các trường đại học trọng điểm, đào tạo nhân lực chất lượng cao.
Đây là cách phân bổ hợp lý, vừa bảo đảm công bằng xã hội, vừa thúc đẩy cạnh tranh quốc tế.
Ba là cải thiện chính sách đối với nhà giáo. Đây có lẽ là giải pháp quyết định. Lần đầu tiên, chính sách đãi ngộ nhà giáo được đặt ngang hàng với các vấn đề chiến lược khác. Khi đời sống, thu nhập, cơ hội thăng tiến được bảo đảm, thầy cô sẽ toàn tâm cho nghề, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.
Tôi cho rằng với quyết tâm chính trị cao và cơ chế thực thi hiệu quả, chúng hoàn toàn có thể tạo ra thay đổi rõ rệt.
Thực tế đã chứng minh mỗi khi chúng ta có sự đột phá về thể chế và nguồn lực, giáo dục lập tức có chuyển biến tích cực. Vấn đề còn lại là tổ chức thực hiện. Quốc hội, Chính phủ và toàn xã hội phải đồng hành, giám sát, bảo đảm nghị quyết được triển khai nhất quán, không bị chậm lại trong quá trình đi vào đời sống.
- Như bà đã nói, vấn đề còn lại là tổ chức thực hiện. Vậy để đưa Nghị quyết 71 đi vào cuộc sống và hiện thực hóa các mục tiêu, theo bà, chúng ta cần tập trung thúc đẩy những nhóm giải pháp trọng tâm nào?
- Để nghị quyết đi vào cuộc sống, theo tôi, cần tập trung vào bốn nhóm giải pháp trọng tâm.
Thứ nhất, thể chế hóa nhanh và đồng bộ. Quốc hội, Chính phủ cần sớm sửa đổi, bổ sung các luật liên quan đến giáo dục, khoa học - công nghệ, lao động, ngân sách… theo tinh thần Nghị quyết 71.
Đây là điều kiện tiên quyết, bởi khi pháp luật rõ ràng, các chủ trương mới có thể triển khai thuận lợi.
Thứ hai là phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Giáo viên chính là nhân tố then chốt quyết định thành công. Phải có chiến lược tổng thể về tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ và tôn vinh nghề giáo. Cùng với đó, cần đổi mới mạnh mẽ đào tạo sư phạm, áp dụng mô hình tiên tiến, gắn đào tạo với thực tiễn.
Thứ ba, đầu tư hạ tầng và chuyển đổi số. Phải phát triển đồng bộ trường lớp, phòng học, ký túc xá, thư viện, đặc biệt ở các vùng còn khó khăn. Đồng thời, cần triển khai mạnh mẽ giáo dục số, xây dựng kho học liệu số quốc gia, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản lý và giảng dạy.
Đây sẽ là công cụ giúp thu hẹp khoảng cách vùng miền và đưa giáo dục Việt Nam bắt kịp xu thế toàn cầu.
Thứ tư là liên kết giáo dục với thị trường lao động và khoa học - công nghệ. Giáo dục phải gắn chặt với nhu cầu phát triển kinh tế, doanh nghiệp, địa phương. Các trường đại học cần trở thành trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp
Khi đó, giáo dục sẽ trực tiếp tạo ra giá trị, không chỉ đào tạo nhân lực mà còn thúc đẩy kinh tế tri thức.
Đặc biệt, tôi muốn nhấn mạnh vai trò giám sát và đồng thuận xã hội. Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội phải vào cuộc giám sát để bảo đảm nghị quyết không chỉ dừng ở lời nói, mà được thực hiện bằng hành động cụ thể. Đồng thời, mỗi phụ huynh, học sinh, doanh nghiệp đều cần coi giáo dục là trách nhiệm chung, cùng đồng hành với Nhà nước.
![]() |
Bà Nguyễn Thị Việt Nga tin rằng Nghị quyết 71 sẽ tạo ra ít nhất ba thay đổi căn bản nhất. Ảnh: Duy Anh. |
4 thách thức để đưa nghị quyết vào cuộc sống
- Đường đi đã rõ, song theo bà, những thách thức nào chúng ta cần nhận thức rõ trong quá trình đưa nghị quyết vào đời sống? Liệu có phải nguồn lực, sự đồng thuận hay về văn hóa giáo dục?
- Đúng như câu hỏi đã gợi mở, thách thức đối với việc triển khai Nghị quyết 71 không nhỏ. Có thể khái quát thành bốn vấn đề lớn.
Một là thách thức về nguồn lực. Dù nghị quyết đã nhấn mạnh ưu tiên chi cho giáo dục, nhưng ngân sách nhà nước vẫn có giới hạn, trong khi nhu cầu đầu tư cho cơ sở vật chất, đội ngũ, chuyển đổi số… là rất lớn. Việc huy động xã hội hóa cũng cần có cơ chế minh bạch, bình đẳng, để tránh tình trạng thương mại hóa giáo dục.
Hai là thách thức về năng lực thực thi. Thể chế có thể tốt, nhưng nếu bộ máy quản lý giáo dục chưa tinh gọn, chưa chuyên nghiệp, sẽ khó chuyển hóa chính sách thành kết quả thực tế. Đây là điểm chúng ta phải quyết tâm cải cách mạnh mẽ.
Ba là thách thức về sự đồng thuận xã hội. Giáo dục là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến từng gia đình. Bất kỳ đổi mới nào cũng có thể gặp phản ứng ban đầu, nhất là khi động chạm đến thi cử, chương trình, sách giáo khoa, học phí.
Do đó, chúng ta cần làm tốt công tác truyền thông, giải thích, tạo sự đồng thuận và niềm tin của xã hội.
Bốn là thách thức về văn hóa giáo dục. Đây là thách thức lâu dài. Chúng ta đang trong quá trình chuyển từ “học để thi” sang “học để làm, để sáng tạo, để khẳng định bản thân”.
Điều này đòi hỏi thay đổi cả trong tư duy của phụ huynh, học sinh, giáo viên và toàn xã hội. Văn hóa coi trọng bằng cấp cần chuyển thành văn hóa học tập thực chất.
Tuy nhiên, những thách thức này không làm giảm giá trị của Nghị quyết 71, mà càng cho thấy tính đúng đắn của nó. Chính vì những khó khăn đó, chúng ta càng cần một nghị quyết chiến lược để dẫn đường.
Vấn đề còn lại là chúng ta cần nêu cao quyết tâm, đồng lòng để kiên trì thực hiện một cách nghiêm túc nhất để đạt hiệu quả cao nhất.
- Về dài hạn, bà kỳ vọng Nghị quyết 71 sẽ tạo ra những thay đổi gì căn bản nhất cho nền giáo dục Việt Nam, cũng như tạo ra tác động gì đối với khoa học, công nghệ và nền kinh tế đất nước?
- Về dài hạn, tôi tin rằng Nghị quyết 71 sẽ tạo ra ít nhất ba thay đổi căn bản nhất.
Một là đổi mới triết lý và mô hình giáo dục. Chúng ta sẽ có một nền giáo dục hiện đại, mở, linh hoạt, cá thể hóa, gắn với nhu cầu thị trường lao động và yêu cầu công dân toàn cầu. Giáo dục không chỉ để lấy bằng cấp, mà để hình thành năng lực, phẩm chất, khát vọng của mỗi con người.
Hai là hình thành đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý chất lượng cao. Đây là lực lượng quyết định sự thành công. Tôi kỳ vọng trong thời gian tới, nghề giáo ở Việt Nam sẽ thực sự là nghề được xã hội trọng vọng, được bảo đảm về đời sống và môi trường sáng tạo, từ đó thu hút mạnh mẽ nhân tài.
Khi đội ngũ nhà giáo phát triển mạnh là khi chúng ta có đủ "bảo chứng chất lượng" cho một nền giáo dục hiện đại và hiệu quả.
Ba là tạo ra xã hội học tập và công dân số. Khi giáo dục suốt đời trở thành hiện thực, khi mỗi công dân có thể học tập mọi lúc, mọi nơi nhờ nền tảng số, chúng ta sẽ có một xã hội năng động, sáng tạo, thích ứng. Đây chính là nền tảng của một quốc gia phát triển bền vững.
Đối với khoa học, công nghệ, Nghị quyết 71 sẽ tạo điều kiện để các trường đại học trở thành trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo. Nhân lực khoa học sẽ được đào tạo bài bản, gắn với thực tiễn.
Điều này giúp Việt Nam không chỉ “đi sau” mà có thể tạo ra những sản phẩm, công nghệ mang dấu ấn riêng, góp phần nâng cao vị thế quốc gia. Đối với nền kinh tế, tác động lớn nhất là chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Khi có nguồn nhân lực chất lượng cao, sáng tạo, có tư duy toàn cầu, kinh tế Việt Nam sẽ từng bước thoát khỏi phụ thuộc vào lao động giá rẻ, tiến tới dựa trên tri thức, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Về dài hạn, tôi tin Nghị quyết 71 không chỉ tạo ra những thay đổi căn bản trong giáo dục, mà còn góp phần định hình một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào giữa thế kỷ XXI.
Thị trường lao động thay đổi chóng mặt, để tồn tại, con người cần học tập suốt đời. Trong bối cảnh đó, tạp chí Tri Thức - Znews giới thiệu tới độc giả cuốn Học tập suốt đời của tác giả Michelle R.Weise.
Tác phẩm cung cấp cho độc giả những đánh giá về thị trường lao động tương lai, những giải pháp cho nhu cầu vừa học vừa làm đang ngày một tăng, cùng với đó là đưa ra những cách kết nối để quá trình chuyển đổi “học-làm” diễn ra thuận lợi hơn. Từ đó, tác giả nêu lên vai trò của việc học tập suốt đời.