Nhảy đến nội dung
 

Chị Út Tịch: Biểu tượng bất tử của phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở Nam bộ

Chị Út Tịch đã trở thành một biểu tượng bất tử của người phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở Nam bộ trong "bản anh hùng ca" giữ nước và dựng nước.

Tượng đài giữa lòng người dân miền Tây Nam bộ

Chị Út Tịch tên thật là Nguyễn Thị Út, sinh năm 1931 tại Tam Ngãi (Vĩnh Long), nơi phum sóc (xóm làng của vùng đồng bào dân tộc Khmer) người Kinh - Khmer giao nhau.

Chị là người Kinh, mồ côi mẹ từ nhỏ, từng bán chè, gánh nước, mót lúa... để sinh nhai. Lấy chồng sớm, có tới 6 người con, chị là điển hình của mẫu người phụ nữ “không thích nói nhiều, đã nói là làm, làm bằng được, làm tới chết”.

Chồng chị - ông Lâm Văn Tịch - là người dân tộc Khmer, cũng là cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Sau khi ông Tịch bị địch sát hại, chị quyết định bồng con lên rừng, xin vào đội du kích. Hành trang chị mang theo chỉ có chiếc khăn rằn, nắm cơm nguội, khẩu súng trường gỉ và tấm lòng kiên trung đến lạ thường.

Không ai huấn luyện chị cách vượt rào kẽm gai, cũng chẳng có sách vở nào dạy chị cách giấu bom trong gùi lúa. Tất cả những việc chị làm đều từ trái tim và kinh nghiệm của một người mẹ từng trải - người hiểu thế nào là mất mát, là phải đánh đổi để con mình được sống.

Trải qua muôn vàn gian khổ nơi chiến trường, chị vẫn không rời hàng ngũ. Có người khuyên: “Chị đã mất chồng nhưng còn 6 đứa con nhỏ dại, thôi về đi”. Nhưng chị chỉ nói: “Về rồi thì ai đánh giặc?”.

Chị không phải là người phụ nữ đầu tiên ra chiến trận, cũng không phải người phụ nữ duy nhất hy sinh. Nhưng trong chị, có đủ đầy cả tình mẹ, tình vợ, tình dân, tình đồng đội và tình yêu Tổ quốc. Đó chính là điều khiến chị trở thành biểu tượng không cần tô hồng, không cần lý tưởng hóa.

Khi chị ngã xuống ở trận đánh năm 1968, con gái út của chị mới chỉ vừa lên 3. Không có lễ tang rầm rộ, không kèn trống, không huy chương, nhưng có hàng nghìn phụ nữ miền Tây khóc chị.

Một bà cụ dân tộc Khmer từng nói trong lễ tưởng niệm chị Út Tịch ở Vĩnh Long: “Tui không có học nhiều, nhưng nhớ hoài cái tên Út Tịch. Vì con gái tui giờ cũng một mình nuôi con như bả ngày trước…”.

Câu nói ấy đủ để hiểu: Chị Út Tịch không chỉ là một biểu tượng cách mạng, mà là một hình bóng máu thịt trong đời sống bà con miền Tây.

Tượng đài chị Út Tịch - dáng người nhỏ nhắn, tay cầm súng, mắt nhìn về phía trước - được đúc bằng đồng, hiện đang đặt tại Tam Ngãi. Ký ức về chị không chỉ được giữ gìn bằng bia đá mà bằng chính sự truyền đời của lòng ngưỡng mộ, của những giọt nước mắt âm thầm rơi xuống khi nghe nhắc đến tên chị.

Ngọn lửa truyền đời

Hôm nay, nếu đi về miền Tây, không khó để bắt gặp những người phụ nữ tiếp nối bước chân chị Út Tịch. Họ không mang súng ra trận, nhưng không lùi bước trước những thử thách mới của thời bình.

Điển hình như Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo Vĩnh Long Thạch Thị Thu Hà - một người phụ nữ dân tộc Khmer, từng bước vươn lên từ vùng căn cứ cách mạng.

Với hành trang tri thức chính trị và sự thấu cảm đời sống đồng bào, những năm qua, chị Hà là người tiên phong vận động hòa hợp tôn giáo, giữ vững khối đoàn kết Kinh - Khmer, đồng thời thúc đẩy các chương trình giảm nghèo, khởi nghiệp phụ nữ dân tộc thiểu số.

Một ví dụ khác là chị Nguyễn Thị Nhiền - Chủ tịch UBND xã Phong Thạnh. Chị sinh ra và lớn lên ở xã Tam Ngãi, luôn nhận việc khó về mình, từ hỗ trợ đồng bào vùng sâu tiếp cận chính sách đến “gõ từng cửa chùa” vận động cứu đói, cấp gạo mùa giáp hạt cho bà con. Người dân gọi chị là “người con gái của đất Út Tịch”, bởi chị không chỉ làm việc giỏi mà còn giữ được cốt cách dấn thân, chịu thương, chịu khó, sống vì dân, gần dân - như chị Út từng sống.

Chị Hà, chị Nhiền, cùng biết bao phụ nữ khác ở miền Tây Nam bộ luôn được người dân so sánh một cách đầy trân quý: “Gan giống Út Tịch”, “Làm việc tận tụy như chị Út ngày xưa…”.

Chính từ tinh thần của Út Tịch, những người phụ nữ hôm nay - với vai trò là cán bộ, là người mẹ, là Đảng viên - đã hóa thân thành những ngọn lửa thầm lặng trong công cuộc giữ nước thời bình.

Trong thời đại mạng xã hội bùng nổ và không gian tư tưởng mở rộng, các thế lực phản động, cơ hội chính trị, tổ chức phi chính phủ trá hình không ngừng lợi dụng vấn đề phụ nữ, dân tộc và tôn giáo để công kích Đảng, Nhà nước, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Những người làm công tác tư tưởng, truyền thông phải lên tiếng phản bác bằng lý lẽ sắc bén, bằng thông tin chính xác, và bằng những hình ảnh sống động của hiện thực cách mạng.

Trong thế trận lòng dân hôm nay, phụ nữ vùng căn cứ không phải là điểm yếu, mà chính là điểm tựa để giữ Đảng, giữ nước và giữ niềm tin nhân dân. Càng trong khó khăn, sự hiện diện của họ càng vững chắc, như những rễ đước cắm sâu vào bùn lầy. Họ là minh chứng sống động cho hiệu quả của chính sách, cho ý chí vượt khó, cho bản lĩnh của người phụ nữ Việt Nam trong hành trình phát triển.

Nếu ngày trước Út Tịch cầm súng để đánh giặc thì hôm nay, những người phụ nữ vùng căn cứ cầm bút, gõ bàn phím, ra nghị quyết, làm cán bộ xã... để tiếp tục chiến đấu trên một mặt trận không tiếng súng: mặt trận bảo vệ chính nghĩa, truyền thống, giá trị Việt Nam.

Cần chiến lược hỗ trợ những “Út Tịch thời bình”

Đất nước bước vào thời bình, phụ nữ vùng căn cứ, đặc biệt là những người dân tộc thiểu số, lại tiếp tục đối mặt với những "cuộc chiến” khác: chiến đấu với nghèo đói, thiếu thốn sinh kế; chiến đấu với định kiến giới và rào cản văn hóa; chiến đấu để giữ gìn bản sắc và có tiếng nói trong cộng đồng…

Dù Đảng, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực nhưng ở nhiều nơi, phụ nữ vùng căn cứ vẫn đang là “người ở sau cùng” trong các hành trình chính sách.

Thiết nghĩ, chúng ta cần có thêm nhiều chính sách cách mạng để phát triển những “Út Tịch thời bình”, không phải chỉ là trợ cấp hay phong trào mà là những chuyển biến thật sự về vị thế, về cơ hội phát triển.

Chính sách phải nhìn thấy phụ nữ bằng chiều sâu, không chỉ là đối tượng hỗ trợ, mà là chủ thể kiến tạo. Phụ nữ vùng căn cứ cần được trao quyền: quyền tham gia chính quyền, quyền tiếp cận đất đai, tín dụng, giáo dục nghề nghiệp, công nghệ số... Họ không nên bị “khoanh vùng” trong chính sách dân số - giáo dục - sinh sản, mà phải được đặt ở trung tâm của chiến lược phát triển cộng đồng.

Mặt khác, phải lồng ghép “giới - dân tộc - địa bàn” vào từng chính sách cụ thể. Đừng chỉ nói phụ nữ dân tộc chung chung. Phụ nữ Khmer ở miền Tây khác với phụ nữ Mông ở Mường Nhé hay phụ nữ Chăm ở Ninh Thuận. Mỗi nhóm có đặc thù, văn hóa, rào cản riêng. Nếu không tinh tế, chính sách dễ trở thành hình thức.

Rất cần có các bộ chỉ số theo dõi tiến bộ bình đẳng giới vùng dân tộc, cụ thể đến cấp xã, ấp, có phân tầng theo dân tộc, độ tuổi, địa bàn. Có như vậy, chính sách mới "chạm" được đến người thật, việc thật.

Đặc biệt, cần một chiến lược truyền thông chính sách “từ lòng dân”, khơi dậy cảm hứng bằng những biểu tượng sống động như Út Tịch. Phụ nữ cần niềm tin, niềm cảm hứng để dấn thân, để tự tin bước ra khỏi định kiến trong hành trình phát triển của đất nước hôm nay. Phim ảnh, báo chí, chương trình giáo dục cần đưa phụ nữ vào vị thế “người lãnh đạo phía trước” chứ không không còn là “người hy sinh phía sau".

Chính quyền các cấp phải có trách nhiệm "bảo trợ sự tiến bộ" cho phụ nữ vùng dân tộc không chỉ qua khẩu hiệu mà bằng thể chế, ngân sách và nhân lực. Đừng để hội phụ nữ tự xoay xở. Các ngành, các cấp, nhất là ngành công tác dân tộc và tôn giáo, tổ chức đảng, đoàn thể… phải xem việc tạo điều kiện cho phụ nữ dân tộc thiểu số vươn lên là một nội dung đánh giá chất lượng lãnh đạo.

Có thể áp dụng mô hình “trợ lý chính sách phụ nữ dân tộc cấp xã”, như cách mà các địa phương đã làm với công tác dân số hay nông thôn mới, để việc “trao quyền” không dừng ở văn bản.

Đề xuất giải pháp chính sách với phụ nữ vùng căn cứ, vùng dân tộc thiểu số

Để tiếp tục hoàn thiện chính sách cho phụ nữ vùng căn cứ, vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số - những người đang giữ vai trò “mặt trận mềm” nhưng chiến lược trong thế trận lòng dân hôm nay, xin đề xuất một số giải pháp sau:

Một là thiết lập Chương trình hành động quốc gia “Phụ nữ vùng căn cứ phát triển bền vững giai đoạn 2025-2035”. Cần xây dựng một chương trình hành động trọng điểm, liên bộ - liên ngành, tập trung vào 5 trụ cột: Phát triển nguồn nhân lực nữ dân tộc thiểu số; Hỗ trợ sinh kế và khởi nghiệp phụ nữ nông thôn; Lồng ghép giới trong mọi thiết kế chính sách cấp tỉnh, cấp xã; Bảo tồn và phát huy vai trò phụ nữ trong văn hóa dân tộc; Phòng chống bạo lực, bóc lột, định kiến giới vùng sâu, vùng xa.

Chương trình này cần có ngân sách riêng, chỉ tiêu đánh giá định lượng, gắn với các chiến lược lớn như: Chương trình mục tiêu quốc gia, Chiến lược bình đẳng giới, Nghị quyết 18-NQ/TW về tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực hệ thống chính trị...

Hai là thành lập Quỹ “Ngọn lửa Út Tịch” hỗ trợ phụ nữ vượt khó ở vùng đặc biệt khó khăn. Quỹ này dành để trao học bổng cho nữ sinh dân tộc thiểu số dù hoàn cảnh đặc biệt nhưng có khát vọng học tập; hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp ở các xã vùng căn cứ cũ; tổ chức các cuộc thi sáng tác, truyền thông, nghiên cứu về tấm gương phụ nữ cách mạng…

Ba là bổ sung vào giáo trình, truyền thông đại chúng các hình tượng phụ nữ cách mạng tiêu biểu, trong đó có Út Tịch, để thế hệ trẻ hiểu rằng người phụ nữ Việt Nam không chỉ là biểu tượng truyền thống mà là lực lượng chiến đấu vì tương lai.

Bốn là tổ chức hội thảo cấp quốc gia và xuất bản ấn phẩm chuyên đề về “Phụ nữ vùng căn cứ - Từ lịch sử đến chính sách”. Đây sẽ là diễn đàn để tôn vinh các tấm gương cụ thể; đối thoại chính sách giữa cơ quan quản lý - nhà nghiên cứu - phụ nữ vùng sâu; làm sống lại một kho tàng lịch sử cách mạng từ góc nhìn phụ nữ, để bổ sung một tầng sâu nhân văn - chính trị cho lý luận phát triển hiện nay.

 
 
 
logo
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI ĐẠI SÀN

GPĐKKD: 0103884103 do sở KH & ĐT TP Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/06/2009.

Địa chỉ: Gian số L4-07 tầng 4, nơ-2 - Gold Season,  47 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội

MIỀN BẮC

Địa chỉ Showroom: D11-47 KĐT Geleximco Lê Trọng Tấn, Hà Đông, Hà Nội

Điện thoại  Điện thoại: 1900 98 98 36

MIỀN NAM

Địa chỉ VPGD: 57/1c, Khu phố 1, Phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

Điện thoại  Email: info@daisan.vn