Chế Lan Viên, nhà thơ lớn trong hai cuộc kháng chiến

Chế Lan Viên là một trong những gương mặt lớn của thi ca VN hiện đại, người đã để lại dấu ấn sâu sắc trên hành trình phát triển của nền văn học dân tộc qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Với tầm vóc tư tưởng lớn và phong cách thơ nghiêng về triết học, Chế Lan Viên không chỉ góp phần đổi mới diện mạo thơ Việt mà còn mở ra những chiều sâu nhận thức mới cho thi ca hiện đại.
Ông là nhà thơ của những câu hỏi triết lý, của khắc khoải suy tư và của sự hòa quyện giữa cá nhân và thời đại. Ông bắt đầu sự nghiệp thơ ca từ rất sớm, năm 17 tuổi đã nổi tiếng ngay từ tập thơ đầu tay Điêu tàn (1937) - một hiện tượng độc đáo của Thơ Mới với âm điệu lạ lùng, đầy mê hoặc, mang đậm màu sắc siêu thực và tâm linh. Tuy chưa mang màu sắc cách mạng, nhưng tập thơ đã cho thấy một nội tâm u uẩn và khát vọng tìm kiếm cái đẹp siêu hình, điều sau này sẽ phát triển thành những chiều sâu tư tưởng trong thơ kháng chiến và thơ triết lý của ông.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Chế Lan Viên bước sang một thời kỳ thơ mới, gắn bó với lý tưởng cách mạng, với công cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước. Từ một thi sĩ siêu hình chuyển mình thành một chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng nghệ thuật, ông không chỉ viết thơ để phản ánh hiện thực mà còn dùng thơ để lý giải và nâng tầm hiện thực bằng tư duy triết học sắc bén. Điểm nổi bật trong phong cách thơ Chế Lan Viên là tính triết lý sâu sắc, tính chất "tư duy hóa" trong thơ, điều mà không nhiều nhà thơ thời đó dám thể nghiệm đến tận cùng. Ở ông, thơ không chỉ là tiếng lòng mà còn là tiếng nói của trí tuệ, của ý thức dân tộc và nhân loại. Câu chữ trong thơ ông nhiều khi mang dáng dấp của triết luận, của sự truy vấn và phản tư:
"Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn"
Những câu thơ ấy thể hiện sự vận động của cảm xúc cá nhân hòa vào chiều sâu tư tưởng dân tộc, là sự kết tinh giữa cái cụ thể và cái trừu tượng, giữa đất và người, giữa cá nhân và cộng đồng.
Chế Lan Viên cũng nổi bật với ngôn ngữ hàm súc, cô đọng, nhiều tầng nghĩa, tạo nên một trường thơ mang chiều sâu tâm linh và lý tính. Ông là một trong những người tiên phong đưa thơ vào chiều sâu lý luận, làm phong phú thêm cho nền thơ chống Pháp và chống Mỹ bằng cách không chỉ thể hiện tinh thần chiến đấu mà còn là tấm gương phản chiếu những suy ngẫm về giá trị, lý tưởng và hy sinh.
Trong bài Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng, Chế Lan Viên đã nhấn mạnh phong cách thi ca nói trên: Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm/Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?/Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất/Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc/Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn/ (…) Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả/Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn/Trái cây rơi vào áo người ngắm quả/Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn…".
ĐỂ LẠI MỘT DI SẢN THI CA QUÝ GIÁ
Nhà thơ Chế Lan Viên tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, sinh năm 1920 tại Diễn Châu, Nghệ An, đảng viên Đảng Công sản VN, hội viên Hội Nhà văn VN (1957). Ông mất năm 1989 tại TP.HCM. Hồi nhỏ ông sống ở Quy Nhơn. Năm 1939 ông ra học ở Hà Nội, sau đó vào làm báo ở Sài Gòn, rồi dạy học ở Thanh Hóa và Huế. Tháng 8.1945 ông tham gia cách mạng tại Quy Nhơn, sau đó ra Huế làm báo Quyết thắng của Việt Minh Trung bộ. Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm báo ở Liên khu IV, khi ở Thanh Hóa, khi ở vùng bị chiếm Bình Trị Thiên. Hòa bình lập lại, Chế Lan Viên hoạt động ở Hà Nội, đã đảm nhiệm nhiều công việc: Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn VN; Đại biểu Quốc hội các khóa IV, V, VI, VII; Ủy viên Ban Thống nhất của Quốc hội khóa IV và V.
Bước vào thời kỳ Đổi mới, Chế Lan Viên cũng là một trong những người đầu tiên đặt lại vấn đề về trách nhiệm của người nghệ sĩ thời hậu chiến. Bài thơ Tháp Bay-on bốn mặt viết năm 1988 là một cách nhìn mới chiêm nghiệm lại mình và mọi người trong quá khứ: "Anh là tháp Bay-on bốn mặt/Giấu đi ba, còn lại đấy là anh/Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc/Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình".
Chế Lan Viên để lại nhiều bài học sâu sắc cho thế hệ làm thơ sau này: Thơ không chỉ là cảm xúc mà còn là trí tuệ. Thơ có thể là phương tiện để truy vấn, để phản tỉnh, để lý giải những vấn đề lớn lao của dân tộc và nhân loại. (còn tiếp)