Bệnh giang mai ngày càng phức tạp

Ban đầu, anh T. (32 tuổi, ở TP.HCM) nghĩ mình chỉ bị mẩn đỏ do dị ứng. Những đốm ban nổi đều trên lòng bàn tay, cộng với cảm giác mệt mỏi kéo dài, buộc anh phải tìm đến Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới.
Khi được hỏi về tiền sử bệnh, nam thanh niên nhớ lại hơn một tháng trước từng xuất hiện vết loét nhỏ, không đau ở dương vật. Vết thương tự lành nên anh bỏ qua, không ngờ đó lại là dấu hiệu điển hình của săng giang mai.
Thời điểm xét nghiệm huyết thanh học cho kết quả, bệnh giang mai của anh T. đã ở giai đoạn II. Lúc này, xoắn khuẩn Treponema pallidum đã lan theo đường máu, gây tổn thương toàn thân và lây nhiễm mạnh.
Tiền sử nhiều bạn tình nam và không sử dụng bao cao su đặt anh vào nhóm nguy cơ cao mắc giang mai, theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).
![]() |
Vết loét lớn trên lưng ở bệnh nhân mắc giang mai tiến triển đến giai đoạn II. Ảnh: Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới. |
Giang mai tái xuất
"Mỗi khi đồng nghiệp của tôi là Jonathan Volk, một chuyên gia bệnh tình tục, nhận được một cuộc tư vấn, anh ấy chỉ cần nhấc điện thoại và nói: 'Đó là giang mai'", Ina Park, chuyên gia về bệnh lây truyền qua đường tình dục, bác sĩ lâm sàng, mở đầu cho bài phát biểu của mình tại Hội nghị Retrovirus và Nhiễm trùng cơ hội 2024.
Tưởng chừng là lời bông đùa, thế nhưng, ẩn đằng sau đó là một thực tế đáng báo động khi tỷ lệ mắc bệnh giang mai đang tăng vọt ở nhiều nơi trên thế giới.
Giang mai là bệnh nhiễm trùng do xoắn khuẩn Treponema pallidum gây ra. Bệnh lây truyền qua quan hệ tình dục không an toàn, đường máu và từ mẹ sang con trong thời kỳ mang thai.
Giang mai từng là căn bệnh gây ám ảnh hàng thế kỷ. Vào thập niên 1940, bệnh tiến triển âm thầm, nhiều triệu chứng bị nhầm với các bệnh da liễu khác, và người bệnh thường chỉ được phát hiện khi đã ở giai đoạn muộn với các biến chứng nặng ở tim, não, mắt hay xương khớp. Song, khi penicillin xuất hiện, câu chuyện đã thay đổi, tỷ lệ mắc giảm mạnh, nhiều người tưởng rằng bệnh đã biến mất.
![]() |
Giang mai đang dần trở thành gánh nặng toàn cầu khi số lượng mắc ngày một tăng. Ảnh: WHO. |
Thế nhưng, dữ liệu từ Bệnh viện Da liễu TP.HCM cho thấy giang mai ở Việt Nam chưa bao giờ biến mất. Năm 2024, trong gần 71.000 lượt khám và điều trị bệnh lây truyền qua đường tình dục (STIs), có hơn 9.400 ca giang mai, trải đều ở mọi giai đoạn: 239 ca giai đoạn I, 1.870 ca giai đoạn II, 189 ca kín sớm và 7.183 ca giai đoạn muộn.
Trên phạm vi toàn cầu, WHO ước tính năm 2022 có khoảng 8 triệu người từ 15-49 tuổi mắc giang mai, trong đó nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM) có tỷ lệ mắc cao nhất.
Ở Ấn Độ, nghiên cứu trên nhóm MSM cho thấy 70% bắt đầu quan hệ tình dục trước tuổi 20, và tới 65% từng mắc giang mai. Nguy cơ đặc biệt tăng ở những người chưa kết hôn, có trên hai bạn tình, hoặc thực hiện quan hệ tình dục qua đường miệng và hậu môn.
Tại châu Phi, khảo sát trên hơn 200 nhóm MSM ghi nhận một bức tranh dịch tễ phức tạp: tỷ lệ đồng nhiễm HIV lên tới 66%, kèm sự hiện diện đồng thời của nhiều tác nhân lây truyền qua đường tình dục khác như Ureaplasma (24%), Mycoplasma (23%), Chlamydia (20%), giang mai (20%) và lậu (9%).
Báo cáo từ CDC Mỹ cũng chỉ ra rằng 23% trong 6.500 người từng quan hệ đồng giới nam mắc ít nhất một bệnh lây truyền qua đường tình dục, với 8% là giang mai.
![]() |
Hình ảnh minh họa vết thương trên da của người mắc bệnh giang mai giai đoạn 2. Ảnh: Atlas of Clinical Medicine. |
Con đường lây nhiễm ngày một phức tạp
Bệnh giang mai không chỉ tìm đến qua quan hệ tình dục thiếu an toàn. Trên thực tế, nó có thể xuất hiện ở những tình huống tưởng chừng vô hại nhất. Theo Trung tâm Y tế Đại học Pittsburgh, vi khuẩn giang mai không chỉ truyền qua giao hợp.
Một vết loét ở miệng, môi, hậu môn hay cơ quan sinh dục cũng đủ để trở thành điểm xuất phát cho mầm bệnh. Chỉ cần tiếp xúc trực tiếp, hoặc dùng chung kim tiêm, dao cạo, bàn chải đánh răng hay bất kỳ vật dụng nào có dính máu hoặc dịch tiết của người nhiễm, nguy cơ đã xuất hiện.
Tuy vậy, các hành vi tình dục vẫn đóng vai trò lớn trong nguy cơ lây nhiễm. Quan hệ qua đường hậu môn, vốn không có khả năng tiết dịch bôi trơn tự nhiên như âm đạo, dễ gây trầy xước niêm mạc, một “cửa ngõ” thuận lợi cho vi khuẩn và virus xâm nhập. Ngay cả những hình thức tiếp xúc tưởng như ít rủi ro hơn, như dùng tay hay đồ chơi tình dục, nếu gây tổn thương cũng có thể trở thành cầu nối cho mầm bệnh.
Một suy nghĩ sai lầm khác là tin rằng chỉ cần bạn tình trông khỏe mạnh là đủ an toàn. Giang mai có thể âm thầm tồn tại ở giai đoạn tiềm ẩn, không để lộ triệu chứng trong nhiều năm. Trong thời gian này, người bệnh vẫn có khả năng lây cho người khác. Điều này khiến việc phát hiện và kiểm soát bệnh trở nên khó khăn, đồng thời góp phần duy trì chuỗi lây truyền trong cộng đồng.
Tâm lý e ngại xét nghiệm cũng là rào cản khiến nhiều người chậm tiếp cận chẩn đoán. Thực tế, xét nghiệm máu phát hiện kháng thể giang mai hiện nay đơn giản, nhanh và chi phí không cao.
Chủ động kiểm tra sức khỏe định kỳ, đặc biệt với những người có nguy cơ cao, là bước quan trọng để bảo vệ bản thân và bạn tình, đồng thời góp phần giảm gánh nặng bệnh trong cộng đồng.
Điều trị sớm để giảm gánh nặng
Giang mai không chỉ là vấn đề cá nhân. Với phụ nữ mang thai, bệnh là nguyên nhân hàng đầu gây sẩy thai, thai chết lưu hoặc giang mai bẩm sinh. Trẻ mắc giang mai bẩm sinh có nguy cơ cao, hoặc sống sót nhưng đối mặt với chậm phát triển trí tuệ, điếc, biến dạng xương, tổn thương gan lách.
Ngoài ra, giang mai làm tăng nguy cơ lây truyền và mắc HIV, tạo “gánh nặng kép” cho hệ thống y tế. Hệ quả gián tiếp gồm mất năng suất lao động, giảm chất lượng sống và tác động tâm lý kéo dài cho người bệnh lẫn gia đình.
![]() |
Tâm lý e ngại góp phần dẫn đến sự gia tăng số ca gia mai. Ảnh: CatchLight Local. |
Tuy nhiên, vẫn có những tín hiệu tích cực trong nghiên cứu và phòng ngừa giang mai. Tháng 10/2023, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) đã đồng ý sử dụng kháng sinh doxycycline sau quan hệ không an toàn ở nhóm MSM, người song tính và phụ nữ chuyển giới, dựa trên kết quả các nghiên cứu.
Gần đây, các nhà khoa học cũng đã tiến gần hơn trong việc xác định protein trên màng ngoài của vi khuẩn Treponema pallidum, mở ra hy vọng có thể phát triển những phương pháp nhắm đích hiệu quả hơn bằng kháng nguyên.
Quá trình nhiễm trùng do vi khuẩn Treponema pallidum tiến triển theo giai đoạn.
Bệnh lây lan khi người lành tiếp xúc với một vết loét tròn, cứng và không đau, gọi là chancre, thường xuất hiện ở bộ phận sinh dục, môi hoặc lưỡi. Vết loét đánh dấu giai đoạn đầu của nhiễm trùng. Những vết loét này có thể xuất hiện trong 3-6 tuần và tự khỏi, không cần điều trị. Các vết loét đôi khi có thể bị bỏ qua do quá nhỏ hoặc ở vị trí khó thất.
Sau khi vết loét chancre biến mất, bệnh nhân bước sang giai đoạn thứ hai của nhiễm trùng. Lúc này, người bệnh bắt đầu có các phát ban hoặc tổn thương trong miệng, kèm sốt, sưng hạch bạch huyết, mệt mỏi, đau họng, đau cơ, rụng tóc và giảm cân.
Giang mai có thể tiến triển thành giai đoạn thứ ba nếu không được điều trị. Giai đoạn này xuất hiện 10-30 năm sau nhiễm trùng ban đầu và có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của người bệnh.
Tại bất kỳ giai đoạn bệnh nào, vi khuẩn có thể xâm nhập vào hệ thống thần kinh dẫn đến tổn thương não, mắt và tai, gây ra đau đầu, viêm màng não, đột quỵ và thay đổi tâm tính. Mắt người bệnh có thể nhạy cảm với ánh sáng hoặc sưng lên, giảm thị lực. Mọi người cũng có thể bị mất thính lực, chóng mặt hoặc ù tai nếu nhiễm trùng đến tai.
Hiện nay, việc điều trị giang mai tương đối đơn giản, đặc biệt khi được phát hiện sớm. Một liều penicillin duy nhất là phương pháp điều trị được khuyến nghị cho bệnh giang mai tiềm ẩn nguyên phát, thứ phát hoặc giai đoạn đầu.
Những người bị dị ứng với penicillin có thể được cung cấp loại kháng sinh thay thế hoặc trải qua một quá trình dần dần để tạo ra khả năng dung nạp penicillin theo thời gian, được gọi là giải mẫn cảm với penicillin. Với phụ nữ mang thai, việc điều trị gồm 3 liều, mỗi liều cách nhau một tuần.
Sau khi điều trị, người bệnh cần xét nghiệm máu và kiểm tra thường xuyên để theo dõi hiệu quả của penicillin. Điều quan trọng là phải kiêng quan hệ tình dục cho đến khi quá trình điều trị hoàn tất, được xác nhận bằng xét nghiệm máu và không còn vết loét.
Do tiêm phòng là phương pháp điều trị hiệu quả duy nhất trong thai kỳ, CDC khuyến cáo các nhà cung cấp chăm sóc sức khỏe ưu tiên những mũi này đó cho phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh.
Theo CDC, chiến lược kiểm soát giang mai hiệu quả phải bao gồm:
Khi hơi thở hóa thinh không đích thực là một sự ám ảnh, là lời nhắc nhở về ý nghĩa của cuộc sống và cũng là gợi mở cho những ai đang loay hoay tìm kiếm mục đích sống.