Ai là Bộ trưởng Giáo dục lâu năm nhất?

29 tuổi là tiến sĩ Văn chương, 41 tuổi là Bộ trưởng Giáo dục, ông là vị Bộ trưởng Giáo dục lâu nhất trong lịch sử, giúp xóa nạn mù chữ và xây dựng nền giáo dục quốc dân.
1. Ai là người giữ chức Bộ trưởng Giáo dục lâu năm nhất trong lịch sử Việt Nam?
GS. Nguyễn Văn Huyên sinh năm 1905 tại phố Thuốc Bắc, Hà Nội. Mồ côi cha từ năm 8 tuổi, ông được mẹ và chị gái nuôi ăn học. Chị gái ông, bà Nguyễn Thị Mão, là một trong những nữ giáo viên toán đầu tiên của Đông Dương.
Từ tháng 11/1946 đến tháng 10/1975, ông giữ chức Bộ trưởng Giáo dục gần 30 năm, là người đảm nhiệm cương vị này lâu nhất trong lịch sử. Trong suốt 3 thập kỷ khói lửa, ông chỉ đạo nhiều cải cách, xây dựng nền giáo dục quốc dân, xóa mù chữ, đào tạo đội ngũ trí thức và cán bộ khoa học - kỹ thuật, đặt nền móng cho sự phát triển lâu dài của đất nước.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên GS. Nguyễn Văn Huyên bằng câu nói nào khi ông còn do dự nhận chức Bộ trưởng?
Cuối năm 1946, trước tình hình kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp mời GS. Nguyễn Văn Huyên làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục. Ban đầu ông từ chối vì cho rằng khó gánh vác nổi. Nhưng Bác Hồ đã nói: “Chú phải chia chữ cho dân”. Câu nói ấy khiến ông nhận lời và gắn bó với ngành giáo dục đến cuối đời.
3. GS. Nguyễn Văn Huyên từng là sinh viên Việt Nam đầu tiên của trường đại học danh tiếng nào ở Pháp?
Ngày 23/3/1934, tại Đại học Sorbonne - “trái tim tri thức” của châu Âu - lần đầu tiên một người An Nam bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Văn khoa. Đó là ông Nguyễn Văn Huyên, khi ấy mới 29 tuổi. Sự kiện này gây tiếng vang lớn trong giới trí thức Paris, được báo Paris Buổi trưa đưa tin ngay sau buổi bảo vệ.
Ngoài bằng tiến sĩ Văn khoa, ông còn có bằng cử nhân Luật tại Sorbonne. Thành tích học tập xuất sắc này đưa tên tuổi Nguyễn Văn Huyên vào hàng ngũ trí thức trẻ tiêu biểu của Đông Dương.
4. Khi ông Huyên nhậm chức Bộ trưởng, tình trạng mù chữ ở Việt Nam như thế nào?
Năm 1946, khi Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên nhậm chức, khoảng 95% người dân Việt Nam mù chữ. Huyện lớn mới có trường tiểu học, một số tỉnh mới có trường trung học cơ sở, và cả nước chỉ có 5 trường trung học phổ thông toàn cấp.
5. Phong trào Bình dân học vụ dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên đã đạt thành tựu nào vào năm 1946?
Ngay trong năm đầu kháng chiến chống Pháp, ông Nguyễn Văn Huyên đã thành lập Nha Bình dân học vụ, dùng tiếng Việt thay tiếng Pháp trong trường học, mở rộng mạng lưới giáo dục tới vùng tự do và khu kháng chiến.
Năm 1946, cả nước đã có gần 75.000 lớp học với khoảng 96.000 giáo viên, giúp hơn 2,5 triệu người thoát mù chữ. Đồng thời, nhiều lớp bổ túc văn hóa được mở cho cán bộ và nhân dân lao động.
Để đáp ứng nhu cầu học tập, ông lập Ban Tu thư, trực tiếp chỉ đạo biên soạn sách giáo khoa các môn xã hội, sử, địa. Đây là một trong những thành tựu lớn nhất của giáo dục Việt Nam ngay giữa hoàn cảnh chiến tranh.
6. Trong giai đoạn làm Bộ trưởng, GS. Nguyễn Văn Huyên đã chỉ đạo mấy lần cải cách giáo dục quan trọng?
Trong 30 năm chiến tranh, nền giáo dục dưới sự lãnh đạo của GS. Nguyễn Văn Huyên luôn thích ứng linh hoạt và có hai cuộc cải cách lớn:
Năm 1950, tại chiến khu Việt Bắc: Thành lập Ban Tu thư, biên soạn sách giáo khoa, rút chương trình phổ thông từ 12 năm xuống 9 năm, mở thêm lớp bổ túc văn hóa và hệ sư phạm cấp tốc (7+2, 10+3) để đào tạo gấp giáo viên.
Năm 1956, sau khi miền Bắc giải phóng: Bộ Giáo dục trở lại Hà Nội, cải cách lần hai, tập trung đào tạo nhân lực cho kiến thiết đất nước. Hệ thống sư phạm mở rộng, đại học tổ chức linh hoạt (2 năm, 3 năm, 4 năm). Đến 1965, miền Bắc có 17 trường đại học, gần 30.000 sinh viên, 97 ngành học - hình thành đội ngũ trí thức và cán bộ khoa học - kỹ thuật.
Trong 9 năm kháng Pháp, nền giáo dục mới do GS. Nguyễn Văn Huyên “thiết kế và thi công” đã xóa bỏ mô hình thực dân, dùng tiếng Việt trong giảng dạy kể cả đại học, xóa nạn mù chữ, xây dựng hệ thống trường ở miền núi.