Ai giữ sạch nhà vệ sinh?

Đề xuất ràng buộc trách nhiệm hiệu trưởng vào chất lượng nhà vệ sinh lần nữa được đưa ra tại một hội nghị ở TP HCM.
Chuyện không còn mới, từng được nói đến nhiều năm về trước. Đã có lúc tôi đồng tình với quan điểm này, xuất phát từ nỗi bức xúc chung khi nghĩ đến chuyện con cái đi học phải nhịn tiểu vì nhà vệ sinh bẩn. Cho tới khi tự mình bước vào cả nghìn nhà vệ sinh trường học, quan sát thói quen sử dụng toilet của các em, và nhìn vào ngân quỹ hạn hẹp của các trường công, tôi nhận ra: buộc trách nhiệm vào một cá nhân thì dễ, nhưng để giải quyết vấn đề "tiêu xả" cho hơn 23 triệu học sinh tiểu học và phổ thông trên cả nước, thì không hề đơn giản như vậy.
Tôi từng quản lý Dự án 1.000 nhà vệ sinh trường học và các chương trình tài trợ xây dựng cơ sở vật chất của một quỹ xã hội. Đi tới nhiều trường, đặc biệt là ở các địa bàn khó khăn, tôi mới thấy có những việc vượt ra khỏi khả năng của hiệu trưởng.
Theo Quyết định 878, Bộ Giáo dục và Đào tạo, mẫu nhà vệ sinh trường học được thiết kế như sau:
Modul nam: 1 xí, 1 tiểu và 1 chậu rửa cho từ 25 đến 30 học sinh (30 với trường đạt chuẩn, 25 với trường có tiêu chuẩn lớn hơn).
Modul nữ: 1 xí và 1 chậu rửa cho 20 học sinh.
Như vậy, một trường học 500 học sinh gồm 250 nam và 250 nữ thì sẽ cần ít nhất 8 modul nhà vệ sinh nam và 12 modul nhà vệ sinh nữ. Bên cạnh đó, khi thiết kế và xây dựng, chủ đầu tư cần dự báo số học sinh của trường trong 5 năm tiếp theo để tránh trường hợp quá tải khi học sinh tăng.
Một khảo sát của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong năm học 2019-2020 về hiện trạng nhà vệ sinh trường học chỉ ra: 30,6% nhà vệ sinh chưa đạt chuẩn và 22,8% nhà vệ sinh chưa được kiên cố hóa. Không có thống kê về tình trạng quá tải nhà vệ sinh, nhưng tại một số khu vực đông dân ở các đô thị lớn, có những trường lên đến hơn 3.000 học sinh, phòng học còn không đủ, nhà vệ sinh thiếu là chuyện dễ hiểu.
Khi trường học không xây dựng đủ số modul nhà vệ sinh cần thiết, sự quá tải là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhà vệ sinh bẩn, nhanh hư hỏng thiết bị và xuống cấp. Trong khi đó, việc đầu tư cơ sở vật chất trường học là theo kế hoạch ngân sách của từng địa phương, ngoài thẩm quyền quyết định của hiệu trưởng.
Theo Nghiên cứu ban đầu về cấp nước, vệ sinh và dinh dưỡng ở nông thôn Việt Nam được Quỹ Nhi Đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) công bố năm 2023, ngân sách nhà nước mới chỉ ưu tiên cho xây dựng và lắp đặt thiết bị mà chưa chú ý tới, hoặc không đầu tư vào việc sử dụng và bảo quản các công trình/trang thiết bị. Nhà vệ sinh vẫn bị "đối xử" như một dạng công trình phụ.
Góp phần làm cho tình trạng quá tải nhà vệ sinh càng trở nên trầm trọng là ý thức sử dụng của chính học sinh, đặc biệt là ở cấp tiểu học. Trong các đợt kiểm tra, khảo sát, tôi chứng kiến không ít bồn cầu phải đậy nắp, ngừng sử dụng sau giờ ra chơi, vì lao công xử lý không xuể. Các em thiếu ý thức, vứt giấy vệ sinh, kể cả giấy viết, gây tắc, tràn. Nút xả cùng thường xuyên gãy, hỏng vì học sinh sử dụng thiếu giữ gìn. Đó là chưa kể nhiều em chưa có thói quen xả nước ngay sau khi dùng nhà vệ sinh, gây mùi khai thối.
Trong khi đó, ngân sách chi trả cho lao công của các trường đều rất hạn hẹp, khiến ban giám hiệu lúng túng trước yêu cầu giữ nhà vệ sinh sạch sẽ, đạt chuẩn.
Năm ngoái, khi thảo luận phương án thiết kế lớp học ba tầng mà chúng tôi tài trợ, cán bộ sở giáo dục của một tỉnh miền núi phía Bắc đề xuất xây nhà vệ sinh dưới mặt đất và cách xa phòng học để tránh mùi khai, thối. Chúng tôi đã mất nhiều thời gian để thuyết phục vị này thuận theo phương án xây nhà vệ sinh hợp khối cùng phòng học và bố trí ở từng tầng để học sinh dễ tiếp cận.
Những giải pháp mà chúng tôi nêu ra để giữ vệ sinh nhằm thuyết phục vị cán bộ kia đã được triển khai ở một số nơi. Ví dụ tại một điểm bán trú ở Nghệ An mà tôi đến thăm, nhà trường trang bị dép riêng để đi trong nhà vệ sinh và cảm biến chuyển động, khi học sinh đi vào, loa sẽ tự phát lời nhắc "để dép ở ngoài, không vứt giấy vào bồn cầu, và xả nước sau khi dùng".
Các ngày hội vệ sinh - sức khỏe học đường hay các lớp tập huấn được thực hiện đồng thời với hạng mục xây dựng nhà vệ sinh như hai hợp phần gắn liền với nhau do các đơn vị như Quỹ Hy vọng hay Quỹ Vì tầm vóc Việt thực hiện cũng rất đáng để nhân rộng. Thông qua các trò chơi, học sinh được nâng cao kiến thức và thực hành giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường và sử dụng nhà vệ sinh đúng cách.
Trên thế giới, tôi thấy mô hình Can thiệp vận hành và bảo trì (Operation and Maintenance - O&M) tại Philippines rất đáng tham khảo. Mô hình này bao gồm ba hợp phần: trang bị đầy đủ dụng cụ, chất tẩy rửa để làm vệ sinh và vật tư chuyên dùng cho bảo trì như búa, tua vít, pít tông, vòi nước phụ; trang bị sổ tay hướng dẫn và các bảng kiểm; đào tạo và hỗ trợ liên tục, bao gồm cả việc bổ sung vật tư tiêu hao sau mỗi 2-3 tuần.
Kết quả đánh giá cho thấy những trường học triển khai mô hình này có tỷ lệ nhà vệ sinh đạt chuẩn sạch cao hơn 27% so với nhóm không can thiệp.
Nhà vệ sinh sạch không chỉ cải thiện cảnh quan và môi trường mà còn giúp cải thiện sức khỏe thể chất và tinh thần của học sinh. Vai trò của nhà nước trong việc xây dựng các quy chuẩn, tiêu chuẩn, thiết kế mẫu và đầu tư kinh phí là đặc biệt quan trọng. Nhưng sự đồng hành của các doanh nghiệp, quỹ xã hội, sự tham gia của phụ huynh và hưởng ứng của chính các em học sinh cũng rất cần thiết.
Không thể để hiệu trưởng đơn độc với gánh nặng giữ sạch nhà vệ sinh.
Nguyễn Minh Hoàng